Chuyển biến từ những mô hình cụ thể
Gia đình ông Ma Văn Sao (thôn Xuân Lạng 2, xã Phú Xuân) có 6 người con, không có việc làm ổn định nên cuộc sống khó khăn. Cuối năm 2024, gia đình ông được xét hỗ trợ 1 con bò sinh sản, trị giá gần 20 triệu đồng theo Tiểu dự án 2- Dự án 3 Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc thiếu số và miến núi (gọi tắt là Chương trình 1719). Đến nay, bò phát triển tốt, vừa sinh được 1 bê con, ông dự tính tiếp tục nhân nuôi để phát triển thêm bò, kết hợp trồng café để gia tăng thu nhập.
Từ đầu năm 2025 đến nay, xã Phú Xuân đã trao hỗ trợ 136 con bò giống cho 136 hộ nghèo, cận nghèo với tổng số tiền gần 3 tỷ đồng, đây được xem là những cần câu để bà con đồng bào có cơ hội vơn lên phát triển kinh tế- thoát nghèo. ông Ma Văn Sao được hỗ trợ bò để tạo sinh kế |
Tại xã vùng sâu Ea R’bin, huyện Lắk (cũ) các chương trình mục tiêu quốc gia đã hỗ trợ hàng trăm hộ dân giống cây trồng, vật nuôi để phát triển kinh tế gia đình. Chỉ tính trong 2 năm (2023 và 2024) trên địa bàn xã đã có 81 hộ dân được trao bò giống sinh sản, với tổng kinh phí thực hiện hơn 1,26 tỷ đồng. Các trường hợp được thụ hưởng là hộ nghèo, cận nghèo và hộ mới thoát nghèo tại địa phương, mỗi hộ được hỗ trợ một con bò cái sinh sản (bò lai Sind) có trọng lượng từ 120 kg trở lên. Các hộ tham gia dự án được bảo hành vật nuôi trong thời gian 12 tháng, nếu vật nuôi không sinh sản hoặc có bất cứ vấn đề gì về chất lượng con giống sẽ được đổi bù. Đây là hoạt động thuộc Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất cộng đồng thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS, miền núi năm 2023 và năm 2024 trên địa bàn xã.
Tại xã Ea Na, mô hình liên kết trồng cà phê theo hướng sản xuất khoa học là minh chứng sinh động cho hiệu quả của Tiểu dự án 3 – phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững của Chương trình 1719 tại Đắk Lắk. Thay vì canh tác manh mún, phụ thuộc kinh nghiệm truyền thống, người dân được tiếp cận kỹ thuật mới, tham gia liên kết chuỗi giá trị, từ khâu giống, chăm sóc đến tiêu thụ sản phẩm.
Năm 2024, 2025, nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh đã nhân rộng các mô hình tương tự: tái canh cà phê xen canh sầu riêng, điều; chăn nuôi bò, dê sinh sản gắn với phòng chống dịch bệnh; trồng cây ăn quả phù hợp thổ nhưỡng. Qua đó, thu nhập của người dân tăng ổn định, rủi ro thị trường được giảm thiểu.
Ông Y Gôn Knul, Trưởng buôn Tuôr A (xã Ea Na) chia sẻ, riêng năm 2024, buôn được hỗ trợ 15 con bò sinh sản và 2 căn nhà đại đoàn kết, mỗi căn trị giá 70 triệu đồng. “Điều bà con phấn khởi nhất không chỉ là con bò hay căn nhà, mà là được hướng dẫn cách làm ăn, biết tính toán để thoát nghèo lâu dài”, ông Knul nói.
Theo số liệu của tỉnh, giai đoạn 2021–2025, Đắk Lắk đã giải ngân hơn 223 tỷ đồng từ Chương trình 1719, hỗ trợ gần 6.700 mô hình sản xuất và đa dạng hóa sinh kế. Các nguồn lực được tập trung vào những ngành nghề có lợi thế, phù hợp điều kiện từng vùng, từng cộng đồng.
Ông Đinh Văn Quán, Phó Chủ tịch UBND xã Ea Na cho biết, sau sáp nhập địa giới hành chính, công tác quản lý các chương trình, dự án tiếp tục được tổ chức triển khai, bảo đảm hỗ trợ đúng người, đúng nhu cầu. “Điều đáng mừng là người dân không còn trông chờ, ỷ lại. Họ chủ động học kỹ thuật, đầu tư sản xuất và tự tin hơn trong làm ăn”, ông Quán khẳng định.
Thực tế từ các huyện Cư M’gar, Buôn Đôn, Krông Bông… cho thấy, khi được “trao cần câu” thay vì “cho con cá”, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số đã thoát nghèo bền vững, thậm chí vươn lên khá giả, trở thành hạt nhân lan tỏa kinh nghiệm trong cộng đồng.
Giảm nghèo gắn với đầu tư hạ tầng
Toàn tỉnh hiện có 152 xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, với hơn 507 thôn, buôn đặc biệt khó khăn. Dân số đồng bào dân tộc thiểu số đạt trên 838 nghìn người, chiếm khoảng 25% dân số toàn tỉnh. Đây vừa là thách thức, vừa là động lực để Đắk Lắk kiên trì mục tiêu giảm nghèo bền vững.
Cùng với hỗ trợ sinh kế, Chương trình 1719 đã góp phần quan trọng trong đầu tư, nâng cấp hạ tầng thiết yếu ở vùng sâu, vùng xa: đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt. Theo đánh giá của lãnh đạo tỉnh, chính những công trình này đã tạo “đòn bẩy” giúp người dân yên tâm sản xuất, tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản và từng bước rút ngắn khoảng cách phát triển.
Điểm nhấn lớn nhất của Chương trình 1719 tại Đắk Lắk chính là sự chuyển dịch tư duy: từ “hỗ trợ cho không” sang “trao cơ hội để phát triển”. Những mô hình liên kết sản xuất hiệu quả không chỉ nâng cao thu nhập mà còn khơi dậy ý chí tự lực, tự cường trong đồng bào dân tộc thiểu số.
Có thể khẳng định, Chương trình 1719 không đơn thuần là một chương trình giảm nghèo, mà là hành trình xây dựng niềm tin, khơi dậy khát vọng vươn lên và tạo nền tảng cho phát triển bền vững. Từ những buôn làng vùng sâu của Đắk Lắk, một hướng đi mới đang dần hình thành: phát triển bằng tri thức, liên kết và nội lực – đúng với tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Nhờ cân đối hiệu quả các nguồn lực và phát huy vai trò của chính quyền cơ sở “gần dân, sát dân”, tỉnh đã hoàn thành nhiều mục tiêu giảm nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hạn chế rõ rệt tình trạng tái nghèo. Đắk Lắk đặt mục tiêu giai đoạn 2026–2030 giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân từ 2%/năm trở lên, riêng đồng bào dân tộc thiểu số giảm ít nhất 3%/năm. Tỉnh phấn đấu đến năm 2030 có 68/88 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó nhiều xã đạt chuẩn nâng cao, kiểu mẫu.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, địa phương tiếp tục đẩy mạnh các mô hình sản xuất gắn với đặc thù từng vùng; khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia liên kết chuỗi giá trị; đồng thời chú trọng đào tạo nghề, chuyển giao khoa học kỹ thuật và hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, cận nghèo, bảo đảm mọi người dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, đều được hưởng thành quả phát triển.
Bài và ảnh: Bình An