Chúa nhật tuần trước, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy sống sự sám hối tận căn của kiếp người nói chung, và đặc biệt trong Mùa Chay nói riêng. Và Chúa nhật IV Mùa Chay hôm nay, Lời Chúa miêu tả hành động thiết thực của anh mù” “đến hồ Silôác mà rửa” (Ga 9, 7). Anh mù không quan tâm đến người ta nói gì hay nghĩ gì mà chỉ làm theo Lời Chúa nói với mình. Chúng ta cùng nhau nhìn lại quá trình làm thay đổi cuộc sống của anh mù trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có nhiều điều rất thú vị.
Lúc đầu, anh chẳng có một ý niệm gì về Chúa. Khi được hỏi về người đã chữa cho anh, anh trả lời một cách rất mù mờ: “Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa” (Ga 9, 11). Đó là tất cả nhũng gì anh có thể nói về Chúa lúc ban đầu. Ngoài ra Người ở đâu, anh không biết. Người là người như thế nào anh cũng chẳng hay. Thế nhưng sau khi anh được sáng mắt, anh đã dần dần nhận ra Chúa. Khi anh được người ta tra vấn về nguyên do anh được sáng mắt, trong lúc người ta tìm cách để kết án Chúa thì anh lại dõng dạc tuyên bố: “Ngài là một ngôn sứ” (Ga 9, 17). Rất thẳng thắn và cũng rất chân thành. Không có gì là úp mở cả. Bởi đâu mà anh mù trong Tin Mừng nói một cách khẳng định như vậy? Thưa bởi ánh sáng của đức tin dẫn đường.
Rồi khi người ta dùng áp lực để dọa cha mẹ anh và tiếp sau đe dọa cả anh thì lúc ấy chúng ta thấy anh trở nên can đảm lạ thường. Dường như anh không còn biết sợ là gì nữa. Thái độ của anh khác hẳn với thái độ của cha mẹ anh. Anh thẳng thắn dõng dạc tuyên bố trước mặt mọi người “Chúng ta biết Thiên Chúa không nhậm lờì những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe có ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta chẳng làm được gì” (Ga 9, 31-33).
Vâng anh đã được mở mắt. Anh đã được thấy sự thật và anh đã dám gắn bó với sự thật đó và cho dù anh có phải trả một giá rất đắt anh cũng sẵn lòng. Trước kia anh mù, cuộc sống của anh đã khổ. Bây giờ anh được sáng mắt, tưởng như cuộc sống sẽ thuận lợi hơn, ai dè bây giờ cha mẹ anh không dám bênh vực, xã hội chẳng giúp anh được gì. Chỉ còn một chút hy vọng vào cộng đoàn tôn giáo thì người ta lại trục xuất anh, đưa anh trở lại với cuộc sống còn cô đơn và bất hạnh hơn trước. Trước đây anh mù nhưng thỉnh thoảng còn có người thi ân bố thí. Có lại gần anh người ta cũng không phải sợ. Nhưng thật may, giữa lúc cả loài người từ bỏ anh thì Chúa lại mở rộng đôi tay đón nhận. Dường như Chúa đã biết trước tất cả, cho nên ngay sau khi anh vừa buồn tủi cô đơn bước chân ra khỏi Hội đường thì Chúa đã chờ sẵn. Bằng một Tình yêu rất đặc biệt và bằng một cái nhìn rất trìu mến Chúa hỏi anh: “Anh có tin vào Con Người không?” (Ga 9, 36). Anh thưa lại: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” (Ga 9, 36). Chúa chậm rãi nói cho anh biết: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây” (Ga 9, 37). Bằng cả một tấm lòng trìu mến, biết ơn và bằng một giọng nói đầy xúc cảm anh thưa lại với Chúa: “Lạy Ngài, tôi tin” (Ga 9, 38). Hai chữ “tôi tin” ấy có lẽ đã biến đổi toàn diện con người của anh mù và đi đôi với hành động anh sấp mình xuống trước mặt Chúa.
Chỉ một ít phút trước đó anh tưởng anh mất tất cả bây giờ anh cảm thấy anh đã có lại tất cả. Chỉ một ít phút trước đó anh tưởng suốt đời anh sẽ phải cô đơn nhưng bây giờ anh thấy cuộc đời anh có hạnh phúc. Cả loài người muốn khước từ anh, nhưng Chúa lại đón nhận anh. Cả loài ngươi tưởng rằng anh sẽ bơ vơ lạc lõng khi anh bị trục xuất ra khỏi hội đường mặc khác giờ đây anh lại được bước vào một ánh sáng mới không phải là của loài người nhưng là ánh sáng của Thiên Chúa trong đó mọi người được liên kết với nhau trong một niềm tin, một phép rửa và được sống với nhau bằng chính Tình yêu của Thiên Chúa.
Trong cuốn “Lẽ Sống” có một câu truyện rất hay. Câu chuyện thế này: Có hai người lái buôn rất giàu có. Hai người lại là bạn thân với nhau. Một hôm hai người nảy ra một ý định là phải đi tìm cho bằng được điều quí giá nhất trên đời. Sau đó thì mỗi người đi một ngả và thề sẽ gặp lại nhau sau khi đã đạt được mục đích.
Người thứ nhất lặn lội khắp mọi nơi để đi tìm một viên ngọc mà người ta gọi là quí nhất trên đời. Ông không ngần ngại lội suối băng rừng, bất chấp mọi hiểm nguy trên con đường để đi tìm và cuối cùng thì ông đã tìm thấy. Ông vui mừng trở về và chờ đợi người bạn của ông.
Nhiều năm trôi qua mà người bạn của ông vẫn vô âm biệt tín. Nhưng sau thì ông khám phá ra rằng sở dĩ người bạn của mình chưa về là vì ông ta không đi tìm vàng bạc mà là đi tìm Thiên Chúa. Sau bao nhiêu năm trời tìm thầy thọ giáo, nghiên cứu Thánh hiền, cặm cụi với sách vở vậy mà ông vẫn chưa tìm thấy Thiên Chúa.
Thế rồi một hôm kia ông đến ngồi thẫn thờ ở bên một dòng sông. Nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông thấy một con vịt mẹ và một đàn vịt con. Tội nghiệp cho con vịt mẹ. Nó cứ phải lận đận vất vả với những con vịt con. Mấy con vịt con cứ thích tách rời khỏi mẹ để đi tìm thức ăn riêng. Vịt mẹ sợ vịt con lạc đàn nguy hiểm cho nên cứ phải đi thu con trở về đàn. Nhưng thu được con này thì lại mất con khác. Dầu vậy vịt mẹ vẫn kiên tâm, không hề tỏ ra một dấu gì là mệt mỏi, gắt gỏng hay giận dữ. Nhìn cái cảnh vịt mẹ cứ mải mê đi tìm vịt con như thế, người đó như tìm ra được câu trả lời cho cuộc tìm kiếm của mình. Ông vội vàng đứng dậy và lên đường trở về nhà.
Vừa giáp mặt là người bạn về trước đã hỏi ngay: “Cho tôi xem thử điều quí giá nhất mà anh đã tìm thấy coi. Tôi nghĩ nó phải là một cái gì tuyệt diệu lắm bởi chưa bao giờ tôi thấy anh có nét mặt mãn nguyện, vui tươi rạng rỡ như hôm nay.” Còn người trở về với hai bàn tay trắng nhưng tâm hồn lại ngập tràn niềm vui ra lời: “Tôi đã đi tìm Chúa và cuối cùng thì tôi lại khám phá ra rằng chính Ngài là Đấng đi tìm tôi”. Vâng Chúa vẫn đi tìm. Ngài mải mê tìm kiếm chúng ta. Ngài đã đến tìm người phụ nữ ở giếng Giacob và đưa bà trở về. Ngài đã đích thân tìm đến anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay để đưa anh về với cội nguồn ánh sáng. Ngài vẫn tiếp tục đi tìm. Chúng ta hãy để cho Ngài dìu dắt hướng dẫn cuộc đời của chúng ta. Hãy can đảm đi theo sự chỉ dẫn của Ngài chúng ta sẽ tìm thấy ánh sáng.