“Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý”. (Mt 13,45). |
Bài đọc I sách Cựu Ước ca tụng Salômon là người khôn ngoan. Chúng ta hẳn đã được nghe nhiều truyện về sự khôn ngoan xét xử của ông. Ðặc biệt truyện nữ hoàng phương Nam nghe tiếng sự khôn ngoan của ông và đã làm một cuộc hành trình đến tận Giêrusalem để chứng nghiệm.
Thuở ấy ông mới lên ngôi kế vị cha là Ðavít. Ông hành hương đến Gabaon, vì Gabaon bấy giờ là trung tâm thờ phượng lớn, tức là nơi thờ phượng chính yếu. Ở đó, ông đã được Thiên Chúa tỏ hiện. Người hỏi ông xin gì? Ông không xin những điều như các vị hoàng đế thời ấy hằng ước nguyện, tức là được giàu sang và thế lực. Ông chỉ xin sự khôn ngoan để phân xử việc dân, để biết biện minh điều phải trái và để dẫn dắt dân Chúa.
Chính việc ông đến Gabaon để dâng lễ đã là một thái độ khôn ngoan rồi. Khác với Saul và Ðavít, ông không phải là vị vua được xức dầu, theo nghĩa được Chúa tuyển chọn. Ông làm vua theo di chúc của cha là Ðavít, tức là theo truyền thống loài người cha truyền con nối. Sự kiện này không thuận lợi một tí nào ở nơi một dân tộc mà truyền thống cai trị dân chỉ điều hành thay mặt Chúa. Salômon cần được tư cách thần quyền ấy. Ông đã khôn ngoan đi dâng lễ ở Gabaon. Và ông đã được Chúa công nhận khi hiện ra với ông.
Ông đã khôn ngoan khi trả lời câu Chúa hỏi. Ông gợi đến lòng nhân nghĩa lớn lao của Người, đặc biệt đối với Ðavít thân phụ ông. Ông hạ mình như một đứa trẻ, chưa biết ngõ ra lối vào, tức là các cách cư xử ở đời. Thế nên ông chỉ xin được sự khôn ngoan của bậc trị dân, là biết phân xử công minh... Và ông thật sự đã khôn ngoan khi quan niệm chính việc trị dân này. Theo ông, muốn cai trị khôn ngoan phải có tấm lòng biết nghe Luật Chúa, nghe tiếng nói của lương tri, nghe lẽ phải của chân lý để đem ra mà phân xử và biện minh.
Tuy nhiên ngày nay ta có thể nói: Salômon vẫn chưa khôn ngoan hoàn toàn. Ông phân xử việc dân một cách tuyệt diệu; nhưng đời tư của Salômon lại mù quáng sống theo dục vọng, để cho nhiều phụ nữ dân ngoại kéo vào con đường tà giáo lầm lạc. Như vậy, ông vẫn chưa phải là người khôn ngoan hoàn toàn.
Người khôn trong Nước Trời Kẻ khôn ngoan đó là người gặp thấy một kho báu giấu trong ruộng liền vui mừng đi bán tất cả những gì anh có mà tậu thửa ruộng ấy. Kẻ đó cũng là thương gia nọ rảo tìm ngọc quý, gặp được một viên ngọc trai đắt giá, liền đi bán sạch mọi điều ông có mà mua lấy. Cuối cùng kẻ khôn ngoan đó cũng là người gia chủ biết rút tự trong kho tàng của ông ra điều mới và điều cũ.
Các môn đệ, đều đã may mắn gặp được Ðức Giêsu. Họ thấy Người có lời hằng sống, nên họ bỏ mọi sự kể cả cha mẹ, lưới thuyền để đi theo Người.
Như vậy, đối với Chúa Giêsu, người khôn chính là kẻ phải biết từ bỏ mọi sự mà đi theo Người; và khi đã đi theo Người, phải sống hết lời mạc khải mới và cũ của Chúa. Ai làm như thế sẽ là những cá tốt trong ngày cánh chung. Còn ai không đón nhận Nước Trời mà Ðức Giêsu mang lại, sẽ là cá xấu bị loại ra trong ngày sau hết.
Do đó, Ðức Kitô đã đề ra một lý tưởng về sự khôn ngoan khác với Salômon. Vị hoàng đế khôn ngoan này đã nghĩ rất đúng khi quan niệm người khôn phải biết nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Nhưng ông thu hẹp phạm vi áp dụng nguyên trong lãnh vực chính trị - xã hội. Ông đã khôn ngoan trong việc xử thế trị dân, nhưng đã ra mù quáng trong đời tư khi chạy theo dục tình và phụ nữ ngoại bang. Cuối cùng cơ đồ do ông gây dựng đã sụp đổ ngay sau khi ông mất vì nó chỉ có vẻ hào nhoáng bên ngoài, còn bên trong thì hư nát.
Tất cả những giáo lý trên đã được thánh Phaolô đem ra thực hành. Và ít có ai xứng đáng hơn người để mang tước hiệu “người ký lục đã được thụ giáo về Nước Trời”. Chính người đã khẳng định nhiệt tình với Luật cũ hơn bất cứ đồng bạn Biệt phái nào; nhưng lại được mạc khải cho biết chiều sâu, chiều rộng, chiều dài của kế hoạch thâm sâu cứu độ mới. Chúng ta hãy nghe người khuyên nhủ chúng ta hôm nay về niềm tin của người khôn.
Niềm tin của chúng ta Khi nói Thiên Chúa tiền định cứu vớt chúng ta, thánh Phaolô muốn nói đến ý chí cương quyết của Thiên Chúa muốn cứu vớt mọi người. Quan niệm tiền định của người gắn liền với ý tưởng Thiên Chúa muốn cứu chuộc mọi dân nước. Người muốn cứu rỗi tất cả chúng ta nguyên vì lòng nhân đạo của Người, trước khi chúng ta có ý tưởng trở về với Người để được cứu rỗi. Người nghĩ ra kế hoạch chuộc tội trước khi chúng ta có ý tưởng về việc đó. Người yêu chúng ta trước đang khi chúng ta còn là tội nhân chẳng có gì đáng thương.
Và như vậy, quan niệm tiền định chỉ nói lên lòng tốt nhưng không của Thiên Chúa; ý chí thương yêu cứu độ từ đời đời của Người. Còn việc người này người nọ được cứu độ hay không là tùy ở người ấy có muốn đón nhận ơn Chúa và đáp lại kế hoạch cứu độ của Người hay lại từ chối và bác bỏ. Thiên Chúa biết trước thái độ của mỗi người, nhưng Người không định. Thái độ của con người là do chính con người định đoạt. Họ có thể quyết định theo Chúa hay không theo Chúa. Còn chính Thiên Chúa thì Người đã tiền định cứu vớt mọi người và đã sai Con Một Người chịu chết để đền bù tội lỗi của hết thảy chúng ta.
Người nói vì Thiên Chúa đã tiền định cho chúng ta được cứu độ, nên Người đã kêu gọi chúng ta; kêu gọi rồi, Người giải án tuyên công cho chúng ta, tức là tha thứ tội lỗi cho chúng ta và ban cho chúng ta quyền làm nghĩa tử và thừa tự; và sau khi đã được như thế, chúng ta sẽ được tôn vinh sau này ở trên trời.
Chúng ta tham dự thánh lễ để mong gì nếu không phải là muốn được kết hợp với Chúa Giêsu Kitô để nên một thân thể, để trở nên đồng hình đồng dạng với Người và để Người là Ðầu của tất cả chúng ta là anh em của Người. Chúng ta làm được công việc ấy là đi vào sự tiền định của Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta được giải thoát và sau này được tôn vinh hiển trị. Công việc duy nhất hàng ngày phải làm là cố gắng trở nên đồng hình đồng dạng với Ðức Kitô và tôn vinh Người là Trưởng tử của một đàn em đông đúc, là cố gắng sống theo gương Chúa Giêsu và phục vụ Người nơi mọi người. Cố gắng ấy chỉ làm được khi chúng ta có niềm tin của người khôn trong Nước Trời, niềm tin mà giờ đây chúng ta sốt sắng tuyên xưng để đi vào mầu nhiệm thánh lễ.