Chương III
HIỆP THÔNG TRONG GIA ĐÌNH CỦA THIÊN CHÚA
“Để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17, 21).
20. Cộng đoàn các môn đệ được Chúa Giêsu thiết lập tiên vàn là để ở với Người (x. Mc 3, 14), lắng nghe Người (x. Lc 10, 39) và chia sẻ đời sống với Người (x. Ga 1, 39). Trong Chúa Thánh Thần, chúng ta nên một với Đức Kitô và nhờ Người, nên một với Thiên Chúa Cha. Từ đó, chúng ta nên một với nhau làm thành Giáo Hội. Mầu nhiệm hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi vừa là suối nguồn vừa là mẫu mực và cùng đích của hiệp thông trong Giáo Hội.[74] Theo giáo lý truyền thống, hiệp thông là thông phần cùng một Chúa Thánh Thần, thông dự các thực tại thánh, và thông công giữa các thánh. Như thế, nguồn mạch và nền tảng cơ bản cũng như điều kiện thiết yếu cho sự hiệp thông giữa các tín hữu trong Giáo Hội, chính là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Không kết hợp với Thiên Chúa thì không thể nói đến hiệp thông trong Giáo Hội được.[75] Đồng thời, sự hiệp thông hữu hình trong cùng một giáo lý các tông đồ, cùng một cử hành bí tích và cùng một tổ chức phẩm trật, là dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp thông vô hình với Thiên Chúa.[76]
21. Sự hiệp thông trong yêu thương giữa các tín hữu là hoa quả của Chúa Thánh Thần (x. Rm 14, 17; Gl 5, 22-23) và là dấu chỉ hữu hình của sự hiệp thông với Thiên Chúa, vì “ở đâu có tình yêu thương, ở đó có Thiên Chúa”.[77] Đức tin công giáo và tông truyền đòi hỏi Giáo Hội tại Việt Nam hiệp thông với Giáo Hội phổ quát và hợp nhất với Đức Giáo Hoàng là đầu mối của đức ái, là nguyên lý và nền tảng hữu hình, trường tồn của sự hợp nhất trong Giáo Hội.[78]
22. Hiệp thông với Giáo Hội phổ quát, Giáo Hội tại Việt Nam củng cố và phát huy sự hiệp thông với các Giáo Hội chị em, cách riêng tại Châu Á. Sự liên đới với các Giáo Hội tại Châu Á không những thể hiện sự hợp nhất mà Chúa Giêsu đã tha thiết cầu nguyện: “Xin cho họ nên một” (Ga 17, 21), mà còn làm phong phú kinh nghiệm sống và cách trình bày đức tin nhờ những trao đổi suy tư thần học, mục vụ và tu đức.[79] Giáo Hội tại Việt Nam cần tiếp tục vun trồng tình hiệp thông liên đới này bằng nhiều cách thế khác nhau.
23. Sự hiệp thông đích thực và sâu xa trong Giáo Hội cần được thể hiện nơi từng giáo phận cũng như giữa các giáo phận. Qua sự hợp nhất yêu thương giữa mọi thành phần Dân Chúa như trong một gia đình, các cộng đoàn vừa là dấu chỉ vừa là trường dạy hiệp thông. Mối tương quan giữa giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân được đặt nền trên phẩm giá bình đẳng của mọi tín hữu, cũng như tinh thần đồng trách nhiệm của từng tín hữu nơi Thân Mình Đức Kitô trong đức tin, cậy, mến.[80] Đại Hội Dân Chúa mong muốn Giáo Hội tại Việt Nam củng cố sự hiệp thông và tham gia trong đời sống Giáo Hội ở mọi cấp bậc, tạo điều kiện để mọi thành phần Dân Chúa tích cực tham gia vào đời sống và sứ vụ của Giáo Hội”.[81] Trên thực tế, điều này chưa được thể hiện đồng đều và rõ nét ở cấp giáo phận cũng như giáo xứ. Vì thế, việc xây dựng một Giáo Hội hiệp thông và tham gia phải là mối quan tâm mục vụ hàng đầu của Giáo Hội tại Việt Nam trong những năm sắp tới.[82]
24. Xây dựng Giáo Hội hiệp thông và tham gia không hề làm giảm vai trò lãnh đạo của các vị mục tử và hàng giáo phẩm. Lòng yêu mến và kính trọng của tín hữu Việt Nam đối với các mục tử phát xuất từ cảm thức đức tin. Họ gắn bó và hiệp thông với giám mục giáo phận trong tinh thần vâng phục vì xác tín rằng giám mục là “nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hợp nhất trong Giáo Hội địa phương”.[83] Cũng vì thế, trước những trào lưu tư tưởng hiện đại có nguy cơ làm cho đời sống đức tin và luân lý của các tín hữu bị dao động, Dân Chúa tại Việt Nam mong mỏi có được sự hướng dẫn cụ thể và kịp thời từ các giám mục là thầy dạy, là người bảo vệ đức tin và phong hóa.
25. Sự hiệp thông của Giáo Hội còn được biểu lộ qua sự chia sẻ trách nhiệm của hàng giáo sĩ với giám mục của mình, như chu toàn các phận vụ được trao, hòa nhập vào đường hướng mục vụ chung của giáo phận và Giáo Hội. Về phần mình, các giám mục nên quan tâm đồng hành, lắng nghe và nâng đỡ các linh mục. Cũng trong tinh thần này, cần khích lệ và cổ võ sự liên đới tương trợ giữa các giáo phận về nhân lực cũng như tài lực.
26. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam cho thấy vai trò quan trọng và sự đóng góp tích cực của các tu sĩ, những anh chị em tận hiến đời mình để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ và bị bỏ rơi, bằng một tình yêu vô vị lợi. Trong hoàn cảnh hiện nay, để phát huy tình hiệp thông và tham gia trong Giáo Hội, các tu sĩ cần hòa nhập những hoạt động tông đồ của mình vào chương trình mục vụ chung của các giáo phận, nơi họ đang hiện diện và phục vụ. Sự hợp tác hài hòa giữa giáo phận, giáo xứ và dòng tu, cần được khuyến khích và cổ võ, nhằm đáp ứng những nhu cầu đa dạng của Dân Chúa và xã hội.
27. Công đồng Vatican II đã mở đường cho sự tham gia đa dạng của giáo dân vào đời sống Giáo Hội, ngay cả trong việc đào tạo linh mục. Giáo Hội khắp nơi đều thu lượm được nhiều hoa quả từ định hướng này. Trong đời sống Giáo Hội tại Việt Nam, giáo dân đã và đang góp phần thật phong phú và quảng đại cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội, như mang Tin Mừng của Chúa đến những vùng xa xôi hẻo lánh, chia sẻ công sức tiền của, nhất là những lời cầu nguyện và bao hy sinh âm thầm để xây dựng sự hưng thịnh và sinh động của cộng đoàn Dân Chúa. Thật đáng trân trọng những đóng góp quý giá đó, nay Giáo Hội cần quan tâm hơn đến việc phát huy phẩm chất của giáo dân bằng cách tổ chức các khóa huấn luyện về thần học, giáo lý, Kinh Thánh, mục vụ.[84] Đồng thời, cần canh tân những đường hướng và qui chế tổ chức giáo phận và giáo xứ, để giáo dân có cơ hội thực thi những quyền chính đáng và trách nhiệm của mình trong Giáo Hội.[85]
28. Cũng thế, trong đời sống Giáo Hội tại Việt Nam, nữ giới đã và đang góp phần tuy âm thầm nhưng rất quan trọng trong việc xây dựng Dân Chúa. Tuy nhiên, quan niệm ‘trọng nam khinh nữ’ ít nhiều vẫn tồn tại. Điều này không tương hợp với lời thánh Phaolô: “không còn nam hay nữ, nhưng tất cả chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3, 28). Vì vậy, Giáo Hội tại Việt Nam cần đề cao vai trò của phụ nữ và tạo điều kiện giúp họ thăng tiến, tích cực tham gia các sinh hoạt của giáo xứ, giáo phận.[86]
29. Theo gương Chúa Giêsu, Đấng luôn ưu ái những người trẻ, Giáo Hội hoàn vũ đang nỗ lực mời gọi người trẻ cộng tác và tham gia vào đời sống cộng đồng Dân Chúa. Tại Việt Nam, Giáo Hội nên nghiên cứu và mạnh dạn tổ chức những cử hành phụng tự thích hợp, khuyến khích giới trẻ tham gia vào các hội đoàn và những sinh hoạt cộng đồng, để ngày càng có thêm nhiều người trẻ quảng đại và can đảm, sống đức tin cách sinh động và trưởng thành. Công việc mục vụ đó cần được chuẩn bị chu đáo bằng việc giáo dục đức tin và nhân bản cho thiếu nhi. Nhờ đời sống thiêng liêng vững mạnh, giới trẻ Công Giáo sẽ góp phần tích cực và bền vững vào việc lành mạnh hóa xã hội hay dấn thân truyền giáo tại những nơi xa xôi.[87]
30. Lịch sử cứu độ đạt đến cùng đích khi Thiên Chúa thâu họp tất cả trong Đức Kitô (x. 1 Cr 15, 23-24).[88] Giáo Hội lữ hành chính là hoa quả đầu mùa của sự hiệp thông cánh chung đó. Thật vậy, khi mọi thành phần trong gia đình Giáo Hội nỗ lực sống hợp nhất trong đức tin và hiệp thông trong đức ái, thì chính đó đã là một lời chứng hùng hồn cho Tin Mừng hiệp thông.[89] Vì thế, mọi thành phần Dân Chúa phải cộng tác với nhau, trong tác động của cùng một Chúa Thánh Thần, để xây dựng Giáo Hội như “dấu chỉ và khí cụ của sự hợp nhất giữa Thiên Chúa với con người cũng như giữa con người với nhau”.[90] Đây cũng là chìa khóa của việc thi hành và chu toàn sứ mệnh được trao phó cho Giáo Hội.[91]
Chương IV
LOAN BÁO TIN MỪNG TRONG HOÀN CẢNH NGÀY NAY
“Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21).
31. Giáo Hội nhận lãnh cùng một sứ vụ mà Đức Kitô lãnh nhận từ Chúa Cha (x. Ga 20, 21) là loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Sứ vụ này làm nên chính lý do hiện hữu của Giáo Hội giữa lòng thế giới.[92] Vì vậy, khi đón nhận Tin Mừng, Giáo Hội tại Việt Nam cũng nhận lãnh sứ vụ loan báo Tin Mừng Đức Kitô cho từng người và mọi người, nhờ đó họ khám phá ý nghĩa đời sống và được lớn lên như những con người mới.[93] Nhận thức đức tin này khiến Đại Hội Dân Chúa nhấn mạnh rằng “thay vì coi truyền giáo chỉ như một trong những hoạt động của Giáo Hội, thì nay cần nhìn sứ mệnh truyền giáo như nắm men thấm nhập, khơi dậy và chi phối mọi khía cạnh đời sống Giáo Hội”.[94] Do đó, cần dành mọi nỗ lực và hoạt động, từ vật chất đến thiêng liêng và mục vụ, cho mục tiêu này.
32. Sứ vụ này mang tính duy nhất và toàn diện. Duy nhất, vì tất cả đều khởi đi và quy hướng về con người Đức Giêsu Nadaret và mầu nhiệm của Người. Người là Con Thiên Chúa, Đấng vừa khai mở vừa là hiện thân của Vương Quốc Thiên Chúa qua mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh. Vì thế, khi thi hành sứ vụ nhất thiết phải công bố Danh Chúa Giêsu.[95] Toàn diện, vì sứ vụ bao gồm nhiều hoạt động: công bố Tin Mừng lần đầu tiên (kerygma), huấn giáo nhằm xây dựng sự trưởng thành đức tin, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập mọi lãnh vực đời sống xã hội và văn hóa.[96] Do đó có mối liên hệ mật thiết giữa sứ vụ loan báo Tin Mừng và việc phục vụ sự sống cùng sự phát triển con người toàn diện.[97] Chính Chúa Giêsu dạy Giáo Hội hướng đi này. Cho dù mối quan tâm hàng đầu của Người là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến công bằng xã hội và nhu cầu vật chất của dân chúng. Như thế, Tin Mừng của Người liên kết mật thiết với sự phát triển những giá trị nhân linh, và không hề tách rời đức tin khỏi cuộc sống. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, Giáo Hội tại Việt Nam xác tín rằng Dân Chúa cần tích cực cộng tác với mọi người thiện chí, cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống. Đó là phương thế cụ thể để thi hành sứ vụ duy nhất và toàn diện của Đức Kitô trên đất nước này.
33. Là công dân trong một đất nước, người Công Giáo Việt Nam có bổn phận yêu mến và xây dựng quê hương. Đồng thời, chúng ta thi hành bổn phận này với tinh thần Phúc Âm, khi thể hiện chức năng tiên tri bằng tiếng nói chân thành và có trách nhiệm, thực thi yêu thương trong chân lý và thực thi chân lý trong yêu thương.[98] Theo ý nghĩa đó, Đức Bênêđictô XVI nhắn nhủ các tín hữu Việt Nam: “Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích, anh chị em phải chứng tỏ rằng là người Công Giáo tốt cũng là người công dân tốt”.[99]
Để thực hiện lời mời gọi này, các tín hữu cần thấu triệt giáo huấn của Giáo Hội về xã hội.[100] Giáo huấn này sẽ soi sáng cho các tín hữu biết cách yêu mến quê hương, yêu thương mọi người không trừ một ai, quan tâm phát triển nhân bản và văn hóa, xây dựng công bằng, tình liên đới, sự bình đẳng và tự do tôn giáo qua nẻo đường hiền lành và khiêm nhường, bao dung và tha thứ.[101] Định hướng này sẽ mở đường cho những chương trình mục vụ của Giáo Hội tại Việt Nam, đặc biệt cho thiếu nhi, giới trẻ và di dân.[102] Như Đức Kitô, Giáo Hội không bao giờ thỏa hiệp với tội lỗi và bất công, nhưng đồng thời yêu thương hết thảy mọi người, với lòng nhân hậu xót thương của Thiên Chúa. Các tín hữu của Chúa Giêsu phải lấy việc lành mà vượt thắng lối sống bạo lực, ích kỷ, hưởng thụ và phóng túng (x. Rm 12, 9-21; 1 Pr 3, 15-16; 4, 3-4).
34. Để chu toàn sứ vụ duy nhất và toàn diện của Giáo Hội, mỗi tín hữu, theo ơn gọi riêng của mình, đều phải dấn thân loan báo Tin Mừng. Tuy nhiên, vì sứ vụ của Giáo Hội cốt yếu mang tính cộng đoàn, nên không một tín hữu nào có thể thi hành sứ vụ cách riêng lẻ. Chính vì thế, các tín hữu Việt Nam, cá nhân cũng như cộng đoàn, phải tích cực tham gia vào cùng một kế hoạch chung mà giám mục địa phương hợp nhất với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã đề ra và chịu trách nhiệm chính. Đồng thời, “cần phải có sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các giáo phận, giữa các giáo phận và các dòng tu, cũng như giữa các dòng tu với nhau”.[103]
35. Ngoài ra, mọi thành phần Dân Chúa cần ý thức về mối tương quan sâu xa giữa đời sống chiêm niệm và hoạt động tông đồ. “Sứ vụ là hoạt động có tính chiêm niệm và là chiêm niệm mang tính hoạt động”.[104] Thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng là chia sẻ tặng phẩm quí giá nhất mà chúng ta đã lãnh nhận, đó là được biết Đức Kitô (x. Pl 3, 8). Như vậy, sứ vụ ấy trước hết là sự cảm nghiệm về Thiên Chúa đang sống và hoạt động trong mình, điều đó thôi thúc chúng ta phục vụ sự sống và phát triển con người toàn diện, từ thể lý đến tâm linh, từ văn hóa và xã hội đến đức tin và luân lý. Do đó, cần cảnh giác trước những cám dỗ lôi cuốn chúng ta rơi vào khuynh hướng đề cao hoạt động mà không quan tâm đến việc vun trồng đời sống nội tâm.
36. Chúa Giêsu đã thi hành sứ vụ với cung cách đặc biệt. Là Tiên Tri trung thành của chân lý Tin Mừng (x. Kh 1, 5), Người can đảm và kiên nhẫn kêu mời mọi người sám hối và sống theo ý định của Thiên Chúa (x. Mc 10, 2-12; Lc 13, 10-17). Là Tôi Tớ, Người khiêm nhường phục vụ nhân loại (x. Ga 13, 1-16; Lc 22, 27) đến độ hiến thân trên thập giá (x. 1 Pr 2, 22-24), biểu lộ uy quyền hiển trị của Thiên Chúa tình yêu. Là Tư Tế đích thực và là vị Trung Gian giầu lòng xót thương (x. Dt 4, 14-15; 9, 11-14), Người cùng sẻ chia mọi sự với gia đình nhân loại để dâng lên Chúa Cha những đau khổ, ưu sầu cũng như hạnh phúc và niềm vui của họ (x. Dt 4, 15; 2 Cr 8, 9).
Theo gương Chúa Giêsu, chúng ta cần thi hành sứ vụ với cung cách của Người: can đảm và kiên trì loan báo chân lý Tin Mừng, khiêm nhường phục vụ, chân thành chia sẻ mọi nỗi niềm của con người, nhất là những người nghèo khổ.[105] Con người ngày nay không chỉ đón nhận Tin Mừng bằng cách “nghe” nhưng còn bằng cách “thấy”.[106] Vì thế, Đại Hội Dân Chúa đề nghị: trong các chương trình huấn luyện nhân sự ở mọi cấp, cách riêng huấn luyện chủng sinh, tu sĩ nam nữ, vấn đề không chỉ là trau dồi kiến thức nhưng còn là hình thành một cung cách sống và phục vụ của sứ giả Tin Mừng.[107]
37. Để thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, Đại Hội Dân Chúa quan tâm đặc biệt đến lãnh vực giáo dục. Chúng tôi đề nghị chính quyền mở rộng cánh cửa cho các tôn giáo và những người thành tâm thiện chí tham gia vào việc giáo dục học đường “là chìa khóa cho tương lai tươi sáng của đất nước”.[108] Giáo Hội Công Giáo có thể cống hiến cho xã hội triết lý và kinh nghiệm giáo dục của mình, nhằm đào tạo những con người có trách nhiệm với bản thân, với tha nhân và xã hội. Đồng thời, Giáo Hội mong ước các cộng đoàn Kitô hữu, gia đình cũng như các đoàn thể, giáo xứ cũng như các dòng tu, hãy hết sức quan tâm đến giáo dục, hỗ trợ những học sinh nghèo, nâng cao trình độ học vấn của giới trẻ, dạy nghề cho giới trẻ miền quê, đồng hành với giới giáo chức Công Giáo.[109]
Vượt xa việc chuẩn bị nghề nghiệp hay đóng khung trong học đường, giáo dục dẫn con người tới Đức Kitô, Con Người Hoàn Hảo.[110] Chính vì thế, “giáo dục đức tin phải là sợi chỉ xuyên suốt, là tinh hoa và cùng đích của hết thảy nỗ lực giáo dục gia đình, học đường và xứ đạo”.[111] Nền giáo dục như thế sẽ giúp người thụ giáo lắng nghe Thiên Chúa và tìm ra được ơn gọi của mình trong kế hoạch của Ngài.[112]
38. Cách đặc biệt, Giáo Hội xác tín rằng việc giáo dục lương tâm cho mọi người là hết sức cần thiết. Theo đề nghị của Đại Hội Dân Chúa, “các giáo xứ cần quan tâm đến nền giáo dục đại chúng về lương tâm, những giá trị nhân bản và văn hóa đối thoại, dưới ánh sáng Lời Chúa”.[113] Với lương tâm ngay chính, họ thoát khỏi chủ nghĩa tương đối về luân lý và sống đúng ơn gọi làm người của mình, giúp họ sống đạo cách ý thức và trưởng thành hơn. Ngoài ra, quyết định sống tốt một cách can đảm sẽ là một thông điệp mời gọi người khác cũng quyết định sống tốt.
39. Trong bối cảnh của xã hội Việt Nam, khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, Giáo Hội cần đối thoại với các tôn giáo, với người nghèo, và với những anh chị em không tôn giáo. Đây là cuộc đối thoại từ trái tim đến trái tim nhằm xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau và phục vụ hạnh phúc đích thực của con người. Đó cũng là cuộc đối thoại phục vụ ơn cứu độ.[114]
40. Cuộc đối thoại với các tôn giáo sẽ giúp Giáo Hội tại Việt Nam xác tín hơn nữa vào tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đang dẫn dắt mọi người tới Chân Lý toàn vẹn (x. Ga 16, 13). Tại Việt Nam, chúng ta nhận thấy đức bác ái của đạo Công Giáo đã gặp gỡ lòng từ bi của Phật Giáo, cảm thức tâm linh của Đạo Giáo, triết lý xã hội của Khổng Giáo và lòng mộ đạo bẩm sinh của người dân Việt: luôn tôn kính Trời, thực hành Đạo Hiếu, bày tỏ lòng biết ơn đối với các đấng sinh thành cũng như đối với các bậc anh hùng dân tộc...[115] Đồng thời, đối thoại cũng giúp Giáo Hội rộng mở hợp tác với các tôn giáo trong công cuộc lành mạnh hóa xã hội và thăng tiến con người. Hơn thế nữa, đây còn là cơ hội để Giáo Hội canh tân lòng tin của mình vào Đức Kitô là Khởi Nguyên và Cùng Đích của toàn thể lịch sử nhân loại.[116] Ý thức tầm quan trọng của cuộc đối thoại với các tôn giáo, trong những năm sắp tới, Giáo Hội phải lưu tâm hơn nữa đến chiều kích này trong việc đào tạo nhân sự cũng như trong các hoạt động mục vụ.[117]
41. Sứ vụ loan báo Tin Mừng mời gọi các tín hữu quảng đại phục vụ con người, nhất là những người nghèo khổ và bị bỏ rơi. Chính Chúa Giêsu dành tình ưu ái đặc biệt cho những kẻ bé mọn. Việc đối thoại với người nghèo giúp cho Giáo Hội học được cách nhìn của Đức Kitô, khám phá nơi con người nhu cầu cần được yêu thương và tôn trọng chứ không chỉ là được ban phát của cải vật chất.[118] Đồng thời, Giáo Hội cũng nhận ra được những hình thức mới của sự nghèo khổ, bén nhạy trước những đổi thay của xã hội để kịp thời đáp ứng dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.[119] Theo gương Chúa Giêsu, Giáo Hội tại Việt Nam cần quan tâm đặc biệt đến những dân tộc ít người là những anh chị em còn phải chịu nhiều thiệt thòi về kinh tế, xã hội cũng như văn hóa. Các bệnh nhân, những người tàn tật, già yếu, neo đơn, mồ côi, những thiếu nữ lầm lỡ, các tù nhân… cũng là những thành phần cần được chăm sóc nhiều hơn trong các hoạt động mục vụ. Các cộng đoàn Kitô hữu cần tìm cách thể hiện tình yêu thương phục vụ họ cách cụ thể, đồng hành với họ trong những khó khăn của đời sống, giúp họ nhận ra được niềm vui của đức tin khi được nên giống Đấng chịu đóng đinh và hoàn tất những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Người vì Hội Thánh (x. Cl 1, 24).
42. Trong cuộc đối thoại với anh chị em không tôn giáo, Giáo Hội nhìn nhận những nỗ lực và thiện chí của họ trong việc phục vụ công ích. Các tín hữu cũng nên ý thức phần trách nhiệm của mình trước hiện tượng dửng dưng, tục hóa, duy vật…, vì nhiều khi chúng ta “đã che giấu hơn là bày tỏ khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và tôn giáo”.[120] Đồng thời, với sự hiền hòa và lòng kính trọng, người Công Giáo “sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của mình” (1 Pr 3,15), thẳng thắn trình bày quan điểm của Giáo Hội trước các vấn đề nhân sinh; nếu cần, sẵn sàng chấp nhận đau khổ để làm chứng cho chân lý Tin Mừng. Ngoài ra, qua cuộc đối thoại chân thành và thẳng thắn, Giáo Hội cũng có thể nhận ra hoạt động mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn con người, và học được cách thế trình bày niềm tin của mình cho con người ngày nay.
43. Trước cuộc khủng hoảng gia đình hiện nay, Giáo Hội nhận thấy cần phải tăng cường và canh tân mục vụ gia đình, phải xem mục vụ gia đình là hoạt động quan trọng và nối kết những kế hoạch và chương trình mục vụ của giáo xứ cũng như giáo phận.[121] Thừa hưởng nền văn hóa Đạo Hiếu luôn lấy gia đình làm gốc, chúng tôi kêu gọi anh chị em giáo dân quan tâm xây dựng gia đình mình nên như Giáo Hội tại gia, trở thành trường dạy đầu tiên, nơi đào tạo những thế hệ mới vững mạnh trong đức tin và can đảm sống đạo đức, có trách nhiệm đối với xã hội và Giáo Hội.[122] Để thực hiện mục tiêu này, các giáo phận và giáo xứ cần hình thành một chương trình mục vụ tiền và hậu hôn nhân thống nhất và xuyên suốt, giúp gia đình thăng tiến đời sống cầu nguyện, tăng trưởng tình yêu hợp nhất và chung thủy, ươm mầm các ơn gọi, chung tay giáo dục con cái trong sự thánh thiện và bền vững trong ân sủng của bí tích Hôn nhân.[123]
44. Sống trong một đất nước có tỷ lệ dân số trẻ rất cao,[124] đồng thời kinh nghiệm được về khả năng, sự nhiệt tình và tính năng động của người trẻ, Giáo hội tại Việt Nam ý thức rằng người trẻ không chỉ là tương lai nhưng còn là chính hiện tại của Giáo Hội. Do đó, mục vụ giới trẻ vừa phải nhìn người trẻ như đối tượng cần được chăm sóc vừa phải xem họ như những chủ thể, sứ giả loan báo Tin Mừng, đặc biệt trong môi trường của giới trẻ.[125] Để thực hiện mục tiêu này, Giáo Hội tại Việt Nam cần đầu tư năng lực và thời giờ hơn nữa cho mục vụ-giáo dục giới trẻ,[126] cách riêng trong hoàn cảnh ngày nay khi người trẻ phải đối diện với nhiều khó khăn cũng như cám dỗ trong cuộc sống. Cần nghiên cứu cách nghiêm túc về tình hình giới trẻ và tìm kiếm những phương thế đồng hành thiết thực với họ trong cuộc sống. Theo hướng đi này, việc đào tạo những linh hoạt viên giới trẻ có tinh thần truyền giáo và biết làm việc tập thể là điều hết sức cần thiết.[127]
45. Đức Bênêđictô XVI đã nhắn nhủ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: “Mong rằng anh em phát triển nền mục vụ thích hợp cho các người trẻ di dân trong nước, qua việc tăng cường sự hợp tác giữa các giáo phận gốc của họ và các giáo phận họ đến, và bằng việc cung cấp cho họ những lời khuyên về mặt đạo đức và các chỉ dẫn thực hành”.[128] Cảm nhận những khó khăn mà người di cư gặp phải trong các lãnh vực kinh tế, tình cảm, xã hội, tôn giáo…, Đại Hội Dân Chúa cũng đề nghị cần có “một cuốn cẩm nang chung về mục vụ di dân, trong đó hướng dẫn rõ ràng những nét cơ bản cần thiết được các giáo phận nhìn nhận, cách riêng trong lãnh vực hôn nhân và dự tòng”.[129] Đồng thời, chúng ta cũng nhận ra được những ơn lành Chúa ban qua anh chị em di dân trong việc xây dựng Giáo Hội và truyền bá đức tin. Mục vụ di dân phải “tạo điều kiện và thúc đẩy họ tham gia vào đời sống và sinh hoạt của cộng đoàn tín hữu địa phương”,[130] đóng góp những nét đặc sắc của mình vào đời sống và sinh hoạt của xã hội và Giáo Hội.[131]
46. Ngày nay, bảo vệ môi sinh không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà còn là một bổn phận luân lý vì liên hệ đến sự sống và phẩm giá của hằng triệu người, trong hiện tại cũng như tương lai. Thiên Chúa đã trao phó vũ trụ cho con người để họ chăm sóc cách khôn ngoan và có trách nhiệm, chứ không phải để khai thác cách tàn bạo vì thèm khát lợi nhuận.[132] Phát triển là để phục vụ con người chứ không thể biến con người thành phương tiện và nạn nhân của phát triển. Do đó Giáo Hội có trách nhiệm hướng dẫn các tín hữu, nhất là người trẻ, biết gìn giữ và bảo vệ môi sinh, vì ích lợi của chính họ, của tha nhân và của cả thế hệ tương lai. Các mục tử nên tổ chức những khóa học về môi sinh cùng với những hướng dẫn cụ thể trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường sinh sống của người dân địa phương.
47. Trong thời đại ngày nay, hơn bao giờ hết, Giáo Hội ý thức được vai trò và tầm quan trọng của các phương tiện truyền thông đại chúng. Một đàng, các phương tiện truyền thông hiện đại là tặng phẩm Chúa ban cho Giáo Hội để loan báo Tin Mừng cách rộng rãi và nhanh chóng,[133] nhưng đàng khác, thực tế cho thấy những phương tiện này có thể bị lạm dụng, tạo ra chia rẽ, hận thù và phóng túng, gieo rắc lối sống đi ngược lại với nền văn minh tình thương và sự sống.[134] Vì thế, Giáo Hội cần hướng dẫn các tín hữu, cách riêng giới trẻ, để họ biết “sử dụng những phương tiện truyền thông cách hữu ích”.[135] Đồng thời, phải “khuyến khích những ai tha thiết với lãnh vực này cùng nhau làm việc” để kiến tạo nền văn minh của tình hợp nhất, tình liên đới và tương trợ trong Giáo Hội và xã hội, bằng cách phổ biến những giá trị Tin Mừng và nhân bản qua các phương tiện truyền thông.[136]
KẾT LUẬN
Thưa anh chị em,
48. Đại Hội Dân Chúa đã được diễn ra như một cử hành phụng vụ để cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa, như một hội ngộ gia đình để sống tình huynh đệ, đồng thời như một diễn đàn, “để các đại diện của mọi thành phần Dân Chúa sử dụng quyền tự do thiêng liêng của con cái Chúa, nói lên những nhận thức của trí tuệ được đức tin soi sáng, những thao thức của trái tim được đức mến nung nấu, và những khát vọng của ý chí được đức cậy khơi dậy, nhằm xây dựng và củng cố ngôi nhà Giáo Hội Chúa Kitô giữa lòng quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta hôm nay và ngày mai”.[137] Chính từ diễn đàn đó mà Thư Chung này được hình thành.
Thư Chung này được gửi đến tất cả anh chị em cùng với lòng biết ơn sâu sắc về lời cầu nguyện, những hy sinh, sự cộng tác nhiệt thành cũng như những góp ý chân thành của anh chị em cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội.
Thư Chung này cũng được gửi đến anh chị em với ước mong mỗi giáo phận, dòng tu, giáo xứ, gia đình, sẽ triển khai thành những hành động và việc làm cụ thể trong đời sống đức tin, góp phần thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng trong xã hội hôm nay cách thiết thực và hiệu quả.
Chúng ta hãy trao gửi mọi tâm tư ước vọng của mình cho Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những người đã làm chứng cho Đạo yêu thương bằng đời sống thấm đậm tinh thần cầu nguyện và bằng cả sự hiến dâng mạng sống.[138]
Chúng ta hãy trao gửi mọi dự định mục vụ của Giáo Hội Việt Nam cho Đức Mẹ La Vang. Hợp với Mẹ, chúng ta cất cao lời ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa về mọi hồng ân Chúa ban trong Năm Thánh (x. Lc 1, 46-55). Hướng lên Mẹ, chúng ta học sống vâng phục Thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh (x. Mc 3, 34-35; Lc 11, 28; 1, 38). Noi gương Mẹ, chúng ta vững tin và kiên trì ngay giữa những thử thách và khó khăn mà Giáo Hội phải đương đầu (x. 2 Pr 1, 5-8; 1 Pr 1, 6-9; Dt 11, 32-39; Rm 8, 37). Cùng với Mẹ, chúng ta hăng hái lên đường thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng, góp phần tích cực vào việc xây dựng nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương trên quê hương đất nước chúng ta.[139]
Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến! (Kh 22, 17, 20; 1 Cr 16, 22)[140]
Thư chung này được chính thức công bố
ngày 01.05.2011, lễ kính Lòng Chúa Thương Xót,
ngày Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được phong Chân Phước.
Làm tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận TPHCM, ngày 28.04.2011
(Còn nữa)