1. Sáng 2/7/1955 là lễ phong chức linh mục cho một số thầy phó tế Việt Nam trong đó có tôi. Thánh lễ được cử hành tại Nhà nguyện dòng Đaminh trên đồi Rosary Hill Hồng Kông.
2. Đáng lẽ tôi phải hân hoan vui sướng, nhưng tính tôi hay bối rối, nên ngay tối ngày trước lễ phong chức, tôi đã vào cha linh hướng, trình bày với ngài ý định của tôi xin được rút lui. Lý do là vì tôi cảm thấy quá sợ, chức linh mục thì cao trọng, mà tôi thì quá bất xứng. Cha linh hướng khuyên tôi hãy vững tin vào Chúa, mà chịu chức. Tôi đã vâng lời. Nhưng vẫn sợ.
3. Các tân linh mục được trở về Việt Nam, để dâng lễ mở tay.
Thánh lễ mở tay của tôi được tổ chức tại Long Phước Thôn, trong nhà thờ tạm của giáo xứ di cư, do cha già cố Phêrô Trần Gia Vĩnh phụ trách.
Trước thánh lễ, tôi xin xưng tội với cha Minh Đăng. Tôi trình bày với cha tâm trạng lo sợ của tôi lúc đó rất kinh khủng. Cha an ủi tôi, ngài khuyên tôi hãy vững tin vào Chúa. Trong thánh lễ cha Minh Đăng với những lời như bốc lửa, đã giảng về sự cậy tin vào Chúa.
Tôi đã dâng lễ đầu tiên lên Chúa với tâm hồn sám hối, cậy tin. Nhưng nỗi sợ vẫn còn.
4. Từ đó đến nay, thấm thoát đã 63 năm. Thời gian 63 năm của đời linh mục là một chuyến đi khá dài. Nỗi sợ và lòng cậy tin xen kẽ nhau.
Lúc này, tôi có thể rút ra một vài kinh nghiệm về những nỗi sợ của tôi.
5. Tôi sợ nhiều thứ. Những nỗi sợ đó là lành mạnh. Nhưng trong tất cả những nỗi sợ đó có hai nỗi sợ tôi cần phải chú ý hơn hết, đó là:
Sợ không ở lại trong tình yêu Chúa, như lời Chúa đã căn dặn.
“Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15, 9).
Và sợ không kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, như cành nho với thân cây nho, như lời Chúa Giêsu đã căn dặn:
“Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy các con chẳng làm gì được” (Ga 15, 6).
6. Ở lại trong tình yêu Chúa, kết hợp với Chúa, chính là gặp gỡ Chúa.
Tôi phải gặp gỡ Chúa một cách riêng tư, thân mật. Hoặc là tôi phải để Chúa gặp tôi một cách tư riêng, thân mật.
Tôi phải lắng nghe Chúa nói với tôi. Tôi cần nói với Chúa những gì tôi đợi chờ nơi Chúa.
7. Như vậy, trái tim tôi rất cần tỉnh thức, rất cần khao khát.
Chứ không phải tôi cần những tư tưởng về Chúa, hoặc cần những chương trình về Chúa.
8. Gặp gỡ Chúa Giêsu phải gặp gỡ như thánh Tông đồ Gioan mô tả:
“Chúng tôi đã nghe,
Chúng tôi thấy tận mắt,
Chúng tôi đã chiêm ngưỡng,
Chúng tôi đã chạm đến” (1Ga 1, 1).
9. Tôi may mắn được gặp Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Dù ở bàn thờ, dù ở bàn giấy, dù ở bàn ăn, lúc nào tôi cũng cảm thấy rất rõ Đức Thánh Giáo Hoàng luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, lúc nào ngài cũng ở lại trong Chúa một cách tha thiết, sâu xa.
10. Tôi được hạnh phúc được gặp Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI, lúc ngài còn là Hồng y. Lúc nào ngài cũng nhắc với tôi về sự cần gặp gỡ Chúa Giêsu một cách tư riêng và thân mật.
11. Đức Thánh Cha Phanxicô thì nhấn mạnh đến sự Chúa Giêsu hiện diện trong những người nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn, đói khát.
12. Riêng tôi, khi tôi tìm ở lại trong Chúa và tìm kết hợp với Chúa như trên, thì tôi cảm thấy được bình an và vui mừng.
13. Ở đây, tôi xin nói ngay điều này, đó là: Bình an và vui mừng mà tôi đã được cảm nghiệm luôn bị Satan quấy phá.
Satan tìm mọi cách, để thúc giục tôi hãy sợ bỏ mất cơ hội, để làm sáng danh Chúa bằng những việc hoành tráng, phô trương, và bằng những cơ hội nhân danh Chúa mà làm những việc đạo đức phi thường.
14. Nhưng Chúa Giêsu đã cảnh giác tôi: “Những người như thế đã được trả công rồi” (x. Mt 6).
15. Nhất là Chúa Giêsu cũng đã cảnh báo về những việc nhân danh Chúa mà làm phép lạ, mà trừ quỉ, mà nói tiên tri. Họ bị Chúa ruồng bỏ một cách dứt khoát (x Mt 7, 21- 23). Bởi vì họ làm theo ý riêng. Như vậy, làm việc này nọ nhân danh Chúa, đâu có chắc gì là đẹp ý Chúa.
16. Nếu cần nói một câu vắn tắt về 63 năm linh mục của tôi, thì tôi xin nói thế này:
“Chúa giải cứu tôi từng ngày, từng giờ, từng phút, để tôi được thuộc về Chúa. Bởi vì chuyến đi cuộc đời linh mục là rất phức tạp. Satan thì rất quỉ quái. Thế gian thì gian là thế. Bản thân tôi thì yếu đuối, hèn mọn.
Chúa đã giải cứu tôi hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp qua Hội Thánh Chúa”.
17. Đức Maria vẫn ở bên tôi, để nâng đỡ tôi.
Tôi sống bên Mẹ, như đứa trẻ thơ yếu đuối. Mẹ đối xử với tôi như người Mẹ hiền kín đáo.
Tôi rất bình an và hạnh phúc được ở bên Mẹ Maria là nơi ẩn náu của những kẻ tội lỗi.
Tôi thường mượn lời Đức Mẹ xưa mà ca tụng Chúa: “Từ đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1, 50).