Trong sự giao thoa, chuyển đổi đó, thì Lời Chúa cũng hướng chúng ta đến ngày chung thẩm của cuộc đời. Vì thế, bản văn Kinh Thánh dùng chữ “mùa” nhằm diễn tả về ngày cánh chung: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nẩy lộc, thì anh em biết mùa hè đã đến gần” (Mc13, 28).
Dù thời gian có trôi qua, năm Phụng vụ có kết thúc, thì Lời Chúa vẫn mãi âm vang và hướng con người tới một chân trời mới: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc13,31).
Nhìn lại chặng đường đã qua, có lẽ mỗi người Kitô hữu chúng ta ít nhiều đã lượng giá lại đời sống của mình, để nhận ra điểm mạnh, điểm yếu.. Từ đó biết canh tân, đổi mới tư duy sao cho phù hợp với những đòi hỏi của cuộc sống. Vậy, chúng thử nhìn lại đời sống của mình qua hai chiều kích lớn, là: đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân:
Đối với Thiên Chúa
Khi nói về giới răn của Chúa, Đức Giêsu trả lời cho một người trong các kinh sư rằng: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Mc12, 30).
Căn cứ vào lời của Đức Giêsu, chúng ta có thể nhận định, đánh giá mức độ tương quan của mình với Thiên Chúa: thật khó để có thể tạo ra mối tương quan mật thiết, khi cuộc sống có biết bao vấn đề đặt ra cho con người, làm cho con người với Thiên Chúa có một khoảng cách nhất định nào đó. Như thế, mến Chúa hết lòng, hết linh hồn... thật khó thực hiện. Cụ thế: để tham dự một thánh lễ hay làm một việc thờ phượng nào đó cách trọn vẹn, thì con người luôn đắn đo, do những ngoại cảnh tác động, lôi kéo, làm cản trở và có khi không thực hiện được. Thí dụ: Hôm nay là ngày lễ trọng, nhưng nếu đi làm, thì Công ty sẽ trả cho lương gấp ba, gấp bốn so với lương bình thường và như vậy người công nhân rất dễ chọn đi làm hơn đi lễ. Như thế, tới một lúc nào đó chúng ta không nhận ra tầm quan trọng của bàn tiệc Thánh Thể, là hiến tế cuộc đời của Đức Giêsu được tái diễn trong thánh lễ, mà trong bài đọc hai thư Do thái cho thấy: “Hiến tế duy nhất mà Đức Kitô đã thực hiện, để đền tội cho nhân loại, mà Ngài chỉ dâng hiến một lần” (Dt10, 12).
Biết bao là thách đố đặt ra trong mối tương quan của con người với Thiên Chúa, có khi làm cho con người mất phương hướng, dẫn đến sự lãnh đạm, thờ ơ và xa rời Thiên Chúa. Làm sao tìm ra được giải pháp tốt nhất, để lấy lại sự thân tình với Chúa. Thiết nghĩ: mỗi người cần có thời gian tĩnh lặng, trở về với cõi sâu thẳm của lòng mình và nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để nhận ra tầm quan trọng của Chúa trong cuộc đời của mình. Có như thế, chúng ta mới dễ dàng tiến tới mối tương quan giữa con người với nhau.
Đối với tha nhân
Đức Giêsu muốn người kinh sư nhận ra tầm quan trọng của mối tương quan liên vị giữa con người với nhau, Ngài nói: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc12, 31).
Đức Giêsu muốn chúng ta thể hiện ra hành động trong mối tương quan với tha nhân, Ngài mong chúng ta nhận ra sự hiện diện của người khác trong cuộc đời của mình, là vô cùng quan trọng, quan trọng đến mức xem người khác như chính mình.
Để minh chứng cho điều đó, chúng ta đọc lại dụ ngôn người Samari tốt lành, mà Tin Mừng Luca thuật lại: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Gieri khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc”. (Lc10, 30- 34)
Hình ảnh người Samari qua dụ ngôn nêu trên, đã giúp chúng ta nhận ra thế nào là người thân cận trong đời sống: đó chính là người đã thực thi lòng thương xót đối với người khác. Vì thế, Đức Giêsu nói với người thông luật: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. (Lc10,37) Lời này như đang văng vẳng bên tai chúng ta, như một lời mời gọi tha thiết và khẩn trương đối với mỗi người. Nhưng thực tế của cuộc sống hôm nay, có mấy ai dám họa lại hình ảnh người Samari năm xưa, khi lòng tốt của con người bị người khác lợi dụng, bị người khác tấn công: có linh mục kia, trên đường đi công tác mục vụ, thấy một em bé trên tay cầm xấp vé số, đứng ở ngả tư đường, giữa cái nắng chang chang, nên vị linh mục dừng lại, sau vài lời hỏi han, và cuối cùng vị linh mục mua hết xấp vé số trên tay em bé. Về tới nhà, vị linh mục kiểm tra những tờ vé số, thì thật ngạc nhiên, vì tất cả số vé đó đã xổ hôm qua! Ở một tình huống khác: khi lưu thông trên đường, thì thấy một tai nạn, người bị nạn nằm bất động trên vũng máu, có người kia dừng lại chở nạn nhân tới bệnh viện. Khi nạn nhân tỉnh dậy, thì chỉ thẳng vào người đã cứu mình và nói: “mày là kẻ đụng tao”!!!
Chúng ta phải làm gì trước những tình huống như vậy! Có nên làm ngơ giả điếc hay là vô cảm không? Vì, sống chủ nghĩa “mặc kệ nó” vẫn là an toàn nhất. Nhưng như vậy, thì bản chất của người Kitô hữu sẽ như thế nào! Có lẽ chúng hãy can đảm, chấp nhận sự thiệt thòi, chấp nhận người khác lợi dụng lòng tốt của ta...Vì tất cả những gì con người làm hôm nay, sẽ phải trả lẽ trước mặt Chúa ngày mai: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao”. (Đn12, 2- 3)
Hôm nay cũng là ngày cả Giáo hội kính trọng thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam, là dịp thuận tiện giúp chúng ta ôn lại và ghi nhận những công trạng của các ngài, các ngài đã góp phần xây dựng cho một niềm tin vững mạnh, để ngày nay chúng ta được thừa hưởng. Đồng thời, cũng là dịp mỗi người chúng ta tỏ lòng biết ơn các cha anh đi trước, họ cũng là người như chúng ta, nhưng nhờ ơn Chúa giúp, họ đã vượt lên tất cả những gian nan, thử thách và ngay cả sự chết, để được thuộc về Chúa. Và cuối cùng họ đã dành được vòng hoa chiến thắng, là vương miện Chúa trao, là sự sống đời đời trong nước Chúa.
Để Lời Ngài còn mãi âm vang trong cuộc sống, thiết nghĩ: mỗi người chúng ta cần lắng nghe Lời Chúa và đem Lời Chúa ra thực hành trong cuộc sống, trong các mối tương quan và nhất là trong những môi trường chưa biết về Lời của Chúa.
Lm. Phêrô. Nguyễn Văn Hải