Nghi thức cử hành Thánh lễ Hôn phối. |
Các nhà nghiên cứu đã thống nhất chỉ ra các giá trị cốt lõi của gia đình Việt Nam là: ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh. Vậy gia đình Công giáo có góp phần gìn giữ các giá trị cốt lõi của gia đình Việt không? Câu trả lời của chúng tôi là khẳng định: có.
1. Quan niệm của Công giáo về gia đình và hôn nhân Công giáo
Giáo hội Công giáo coi gia đình là tế bào của xã hội, là “Hội Thánh tại gia” nên đặc biệt coi trọng gia đình. Giáo luật 1983 dành hẳn 110 điều từ điều 1055 đến 1165 để nói về gia đình. Điều 1055 viết:
“Do giao ước hôn nhân, một người nam và một người nữ tạo thành một sự hiệp thông trọn cả cuộc sống; tự bản chất, giao ước ấy hướng về lợi ích của đôi bạn, cũng như việc sinh sản và giáo dục con cái. Chúa Kitô đã nâng giao ước hôn nhân giữa hai người đã được Rửa tội lên hàng Bí tích.
Vì thế, giữa hai người đã được Rửa tội không thể có khế ước hôn nhân thành sự, nếu đồng thời không phải là Bí tích”.
Gia đình Công giáo chỉ được tạo ra do sự kết hợp tự nhiên giữa một người nam và một người nữ, không có gia đình đồng tính hay đồng giới. Học thuyết xã hội Công giáo viết:
“Giáo hội coi gia đình như là xã hội tự nhiên đầu tiên với những quyền lợi tự nhiên riêng của gia đình, đồng thời đặt gia đình làm trung tâm đời sống xã hội. Đẩy gia đình vào một vai trò phụ, thuộc hàng thứ yếu, loại gia đình khỏi vị trí đúng đắn của nó trong xã hội sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho sự phát triển thật sự của toàn xã hội. Thật vậy, gia đình được khai sinh từ sự hiệp thông thân tình trong cuộc sống và trong những phân định trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Gia đình vốn có chiều hướng xã hội riêng biệt và độc đáo, đó là nơi diễn ra các mối quan hệ liên vị, là tế bào đầu tiên và sống động của xã hội”.
Hiến chế “Gaudium et Spes” (Giáo hội trong thế giới ngày nay) của Công đồng Vatican II đã minh định:
“Đấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho cộng đoàn tình yêu vợ chồng. Đời sống chung này được gây dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là sự ưng thuận cá nhân không được rút lại. Như thế bởi một hành vi nhân linh, trong đó hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau bởi sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã hội. Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của cải xã hội nên sợi dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con người”.
Tông huấn Familiaris Consortio (Gia đình Kitô giáo) của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II ban hành ngày 22/11/1981 lại cho gia đình là ơn gọi đặc biệt cao cả mà Thiên Chúa ban cho nhân loại:
“Nhờ đức tin soi sáng, một lần nữa, Hội Thánh biết được tất cả về điều thiện hảo quý giá là hôn nhân và gia đình và ý nghĩa sâu xa nhất của thực tại ấy. Hội Thánh thấy được tính cách khả thể phải rao giảng Phúc Âm tức là Tin Mừng cho tất cả mọi người, nhưng cách riêng là cho những ai được mời gọi sống đời hôn nhân và đang chuẩn bị bước vào đời sống vợ chồng.
Hội Thánh xác tín rằng, chỉ khi nào biết tiếp nhận Tin Mừng, người ta mới có thể chắc chắn thực hiện được tất cả những gì mà con người đang hy vọng chính đáng nơi hôn nhân và gia đình” (số 3).
Vì hôn nhân Công giáo là một Bí tích cao trọng nên ràng buộc cả hai phải chung sống cho đến trọn đời. Không một thế lực nào có thể chia cắt hôn nhân này. Kinh Thánh viết: “Đấng Tạo Hóa ban đầu đã dựng nên loài người, đã dựng nên nam và nữ rồi phán rằng: Bởi đấy, người nam sẽ bỏ cha mẹ và kết hợp với vợ mình và cả hai nên một thân thể. Do đó, vợ chồng không còn là hai mà là một. Như vậy, những người mà Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được chia rẽ” (Mt 19, 5-6).
Nhưng sự kết hợp và ràng buộc đó không phải là sự trói buộc mà vợ chồng được liên kết dựa trên sự yêu thương, kính trọng nhau. Vợ phải phục tùng chồng và yêu mến chồng nhưng chồng cũng phải yêu thương vợ. Bởi cả hai người chồng, vợ đều từ một thân xác mà ra. Trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô viết: “Hỡi các kẻ làm chồng, hãy yêu vợ mình như Chúa Kitô yêu Giáo hội và hiến thân cho Giáo hội…Chồng cũng vậy, phải yêu mến vợ tức là yêu mến mình. Không ai ghét thân mình bao giờ. Trái lại, người ta nuôi dưỡng, săn sóc thân mình như Chúa Kitô chăm sóc và nuôi dưỡng Giáo hội” (Ep 5, 25-29).
2. Yêu thương là cốt lõi giá trị của Công giáo cũng như của gia đình Công giáo
Bản chất của Công giáo là yêu thương vì “Thiên Chuá là tình yêu” như thư của thánh Gioan viết:
“Thưa anh chị em thân mến, chúng ta hãy thương yêu nhau vì lòng thương yêu phải phát sinh từ Thiên Chúa. Và ai thương yêu thì kẻ ấy sinh ra bởi Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu…Thưa anh chị em thân mến, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì chúng ta cũng có bổn phận phải thương yêu nhau. Chưa ai được xem thấy Thiên Chúa. Nếu chúng ta thương yêu nhau thì Thiên Chúa ở trong lòng chúng ta và lòng Chúa thương yêu ta mới trọn vẹn…Phần chúng ta, hãy có lòng thương yêu, vì Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu có ai nói: Tôi kính mến Chúa mà lại ghen ghét anh chị em mình thì đó là kẻ nói dối. Vì kẻ nào không yêu anh chị em mình xem thấy, thì không thể mến Thiên Chúa mà mình không xem thấy được. Thật vậy, đã có giới răn Chúa truyền cho chúng ta rằng: Ai kính mến Thiên Chúa thì cũng phải thương yêu anh chị em mình” (1 Ga, 7-21).
Công giáo có 10 điều răn nhưng tóm lại chỉ có 1 điều răn kép là: kính Chúa và yêu người. Nhưng yêu người là thước đo, là phép thử của lòng kính Chúa. Vì thế, trong Phúc Âm của thánh Gioan đã viết:
“Đây là giới răn của Thầy, chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu chúng con. Không ai có tình yêu lớn hơn kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình. Chúng con là bạn hữu nghĩa thiết của Thầy, nếu chúng con làm những điều Thầy truyền dạy cho các con. Thầy không gọi chúng con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm, Thầy đã gọi chúng con là bạn hữu, vì tất cả những điều Thầy học được bởi Cha, thì Thầy cũng tỏ ra cho chúng con hết…Thầy truyền dạy cho chúng con một điều là chúng con phải thương yêu nhau” (Ga 15, 9-17).
Bởi thế, tín hữu Công giáo phải có tình yêu thương đồng loại. Chứ không chỉ yêu thương người ruột thịt hay người làm ơn cho mình. Vì như thế, động vật cũng làm được. Tình yêu con người đối với Công giáo phải vượt biên giới quốc gia và cao hơn yêu cả kẻ thù của mình, yêu cả thế giới vũ trụ môi trường xung quanh. Chúa đã phán: Anh em hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 9-18). Mà những loài thụ tạo đâu chỉ có mỗi con người mà còn núi non, sông biển, động thực vật, môi trường…Người Công giáo phải chứng minh bằng lối sống của họ để chứng tỏ tình yêu thương đó.
Hôn nhân Công giáo cũng thể hiện sự yêu thương đặc biệt giữa các thành viên trong gia đình. Khởi đầu là tình yêu giữa người nam và người nữ tự do, tự nguyện sống với nhau trọn cả cuộc đời. Linh mục chủ sự hôn lễ bao giờ cũng thẩm vấn đôi hôn nhân là có được tự do đến với nhau không? Nếu bị ép buộc, hôn lễ tự bị hủy bỏ và hôn nhân không thành. Trong lễ cưới, trước mặt Thiên Chúa, linh mục chủ sự và cộng đoàn, đôi hôn nhân phải thề hứa dứt khoát bằng cách xưng tên của mình và người kết hôn:
“Em…nhận anh…làm chồng và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe để yêu thương và tôn trọng anh mọi ngày, suốt đời em”.
Người chồng cũng phải đoan hứa với vợ như thế.
Đây là những lời thề nguyền đẹp nhất của các cặp đôi hôn nhân. Vì vậy, dù không theo Công giáo, nhiều tổ chức khi làm lễ thành hôn cũng lấy lời đoan hứa trong lễ cưới Công giáo làm chuẩn mực.
Ngay từ buổi đầu tạo dựng loài người, Thiên Chúa đã muốn con người có đôi vì “ở một mình không tốt”. Chúa đã lấy xương sườn của Adam để tạo dựng nên bà Eva để hai người “cùng xương, cùng thịt” nên có thể gắn bó với nhau suốt đời. Nhưng sự ràng buộc sống với nhau trọn đời không phải là trói buộc mà được xây dựng trên tình yêu thương. Vợ phải kính trọng chồng và chồng phải yêu thương vợ như “Chúa yêu Hội Thánh” vậy. Trong thư gửi giáo dân Côrintô, thánh Phaolô viết:
“Để khỏi mắc tội dâm ô, đàn ông hãy lấy vợ, đàn bà hãy lấy chồng. Chồng phải trọn bổn phận đối với vợ mình và vợ cũng phải trọn bổn phận với chồng mình. Vợ không có quyền về thân xác mình. Thân xác vợ thuộc về chồng, chồng cũng không có quyền về thân xác mình. Thân xác chồng thuộc về vợ. Vợ chồng đừng từ chối nhau, trừ khi hai người thỏa thuận kiêng khem một thời gian, để chuyên việc cầu nguyện. Sau đó, anh chị em lại sống chung với nhau, kẻo ma quỷ cám dỗ anh chị em vì anh chị em không giữ mình được” (1Cor 7, 3-5).
Như vậy, hôn nhân không chỉ là đáp ứng sinh lý bản năng của con người, giữ cho họ không phạm tội ngoại tình, giữ yên ổn cho gia đình họ và cả các gia đình khác nữa. Theo giáo huấn của Công giáo thì việc giải quyết nhu cầu sinh lý của vợ hay chồng thì người vợ hay chồng phải có nghĩa vụ đáp ứng nếu không có lý do chính đáng. Có lẽ hiếm có tôn giáo nào dạy dỗ chi tiết như vậy về đời sống vợ chồng.
Công đồng Vatican II đã dành nhiều trang trong Hiến chế Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng) để nói về ý nghĩa cao cả của hôn nhân và gia đình. Hôn nhân không chỉ đơn thuần là sự sống chung giữa người nam và người nữ mà Thiên Chúa ở cùng họ. Công đồng viết:
“Đấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho cộng đoàn tình yêu vợ chồng. Đời sống chung này được gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là sự ưng thuận cá nhân không thể rút lại. Như thế, bởi một hành vi nhân linh, trong đó hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã hội. Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội nên sợ dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con người. Chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu khác nhau” .
Mục đích của hôn nhân Công giáo là việc truyền sinh. Sách Sáng thế viết:
“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa sáng tạo con người có nam, có nữ. Thiên Chúa ban phúc cho họ và Thiên Chúa phán với họ: Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất và thống trị muôn loài. Hãy làm chủ biển cả, chim trời và mọi tạo vật bò trên mặt đất” (St 1, 27-28).
Công đồng Vatican II cũng nhấn mạnh bản chất của hôn nhân là sinh sản con cái. Con cái không chỉ là sợi dây gắn kết vợ chồng mà còn giúp duy trì nòi giống chứ không phải là bản năng sinh lý thuần túy:
“Bổn phận truyền sinh và giáo dục phải được coi là sứ mệnh riêng biệt của vợ chồng. Trong khi thi hành bổn phận ấy, họ biết rằng mình cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa Tạo hóa và như trở thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài. Bởi vậy, họ sẽ chu toàn bổn phận mình với trách nhiệm của con người và của Kitô hữu. Tôn trọng, tuân phục Thiên Chúa, đồng tâm hiệp lực với nhau, họ sẽ tạo cho mình một phán đoán ngay thẳng, biết xét đến lợi ích riêng của họ cũng như của con cái đã sinh hay tiên liệu sẽ có”.
Tất nhiên, cách hiểu “sinh sôi cho đầy mặt đất” bây giờ rất khác với nghĩa đen đó. Trong Thư chung năm 1992, các Giám mục Việt Nam đã có cách hiểu chính xác hơn:
“Trong tình hình dân số hiện nay của thế giới nói chung và nước ta nói riêng, đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế, không thể làm theo phương châm của người xưa “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, phương châm ấy có giá trị trong thời kỳ nông nghiệp “đất rộng người thưa”. Ngày nay, loài người đã đầy mặt đất, cần phải tính đến việc nuôi sống và giáo dục những mầm non của loài người. Đàng khác, mệnh lệnh sinh sản cho đầy mặt đất gắn liền với mệnh lệnh làm chủ mặt đất. Muốn thế thì đứa con sinh ra phải được muôi nấng giáo dục nên người” (Tc 1992, số 11).
Vì thế, Giáo hội Công giáo đưa ra chủ trương “sinh đẻ có trách nhiệm”. Tuy nhiên, nếu trường hợp vợ chồng không thể sinh con, thì hôn nhân đó cũng không phải vì thế mà hủy bỏ. Hiến chế Gaudium et Spes viết:
“Tuy nhiên, hôn nhân không phải chỉ để thiết lập để mưu sự truyền sinh mà thôi, nhưng chính đặc tính giao ước bất khả phân ly giữa hai người và lợi ích con cái đòi hỏi tình yêu hỗ tương của hai vợ chồng phải được phát triển, thăng tiến và nảy nở cách chính đáng. Cho nên, ngay trong trường hợp không có con như hằng tha thiết mong mỏi, hôn nhân vẫn tồn tại như một cuộc sống chung và vẫn giữ được giá trị cùng đặc tính bất khả phân ly của mình”.
Gia đình không chỉ có vợ chồng mà còn có con cái, ông bà và những thành viên ruột thịt khác. Giáo hội Công giáo dạy phải yêu thương tất cả. Trong 10 điều răn, thì điều thứ tư dạy: con cái phải thảo kính với cha mẹ. Thảo kính với cha mẹ từ lúc nhỏ thì phải nghe lời cha mẹ như sách Huấn ca viết: “Khi làm con, hãy nghe lời cha mẹ trong mọi sự vì điều đó đẹp lòng Chúa” (Hc 3, 30). Khi cha mẹ già phải chăm sóc nuôi dưỡng: “Con ơi, hãy chăm sóc cha con khi người đến tuổi già. Bao lâu, người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông chứ không được khinh dể hay bạc đãi người. Kẻ nào bỏ rơi cha mẹ mình giống như kẻ lộng ngôn, ác độc sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc 3, 12-16). Cho nên thảo kính với cha mẹ không chỉ là bổn phận bản năng mà là giữ lời Chúa truyền dạy: “Con hãy thờ cha kính mẹ như Đức Chúa, Thiên Chúa đã truyền dạy cho con để được sống lâu và hạnh phúc tìm đến mà Đức Chúa, Thiên Chúa của con, ban cho con” (Dnl 5, 16).
Với người Công giáo, con cái phải luôn cầu nguyện cho cha mẹ khi còn sống cũng như khi đã qua đời. Giáo hội lấy ngày mùng 2 Tết Nguyên đán là ngày cầu nguyện cho tổ tiên và suốt tháng 11 hàng năm, các nghĩa trang Công giáo như công viên rất đẹp, lúc nào cũng vang lên lời cầu nguyện.
Con cái kính trọng cha mẹ thì cha mẹ cũng có bổn phận nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Giáo dục đầu tiên là giáo dục đức tin Công giáo. Mà đức tin Công giáo cốt lõi là kính Chúa yêu người. Công đồng Vatican II viết:
“Gia đình là một trường học phát triển nhân tính. Nhưng để gia đình có thể sống trọn vẹn và chu toàn sứ mệnh của mình, cần phải biết hòa hợp tâm hồn: vợ chồng phải cùng nhau bàn định cũng như cha mẹ phải ân cần cộng tác trong việc giáo dục con cái. Sự ân cần của người cha giúp ích rất nhiều cho việc đào tạo con cái, nhưng cũng phải làm sao giữ được cho người mẹ vai trò chăm sóc gia đình, vì con cái nhất là khi thơ bé, rất cần đến sự chăm sóc ấy…Phải giáo dục con cái thế nào để khi đến tuổi trưởng thành, chúng có thể chọn bậc sống và theo ơn gọi, ngay cả ơn gọi tu trì, với ý thức trách nhiệm đầy đủ và nếu kết hôn, chúng có thể lập gia đình riêng” .
Như vậy, yêu thương là căn tính của Công giáo và cũng là của gia đình Công giáo. Chính yêu thương gắn kết gia đình bền vững, tạo ra hạnh phúc cho mỗi thành viên và cả gia đình.
3. Thực tế đã minh chứng
Do Công giáo quy định hôn nhân một vợ một chồng nên nhiều làng Công giáo từ xưa đã có quy định chặt chẽ cấm ngoại tình, loạn luân, lấy vợ lẽ. Hương ước của làng Công giáo Vĩnh Trị quy định:
“Làng toàn tòng Công giáo chỉ được phép nhất phu, nhất phụ thôi. Vậy ai còn vợ mà lấy vợ hai thì cả làng không cho ăn ngôi với nữa để khỏi làm gương xấu cho kẻ khác…Ai thông dâm với vợ người có đủ chứng cớ thời hương hội lập biên bản phạt người đàn bà 1đ. 00. Người đàn ông cũng vậy và phải truất ngôi 5 năm, tái phạm sẽ bị truất ngôi vĩnh viễn. Ai can tội hiếp dâm đàn bà và thông dâm với con gái dưới 16 tuổi; Ai thông dâm với người đàn bà đang có tang chồng; Anh em họ hàng thông dâm với nhau, con cái thông dâm với cha mẹ thời hương hội lập biên bản phạt 1 đ.00 và truất ngôi trong làng và hương ẩm hẳn”.
Vì được giáo lý Công giáo luôn nhắc nhở nên người Công giáo nghiêm ngặt giữ lối sống thanh sạch, rất ít trường hợp ngoại tình. Ngay cả những văn nghệ sĩ thường thông thoáng trong quan hệ ngoài luồng, nhưng nếu là người Công giáo họ cũng giữ gìn. Nhà văn Lê Đại Thanh có kể lại trường hợp của nhà văn Công giáo Nguyên Hồng:
“Có một cô gái đẹp và lãng mạn mê Nguyên Hồng vì đã đọc tác phẩm “Những ngày thơ ấu” của anh. Nhưng Nguyên Hồng là một núi băng. Phạm Cao Củng, một người chuyên viết chuyện kiếm hiệp cho Nhà xuất bản Mai Lĩnh đã rỉ tai Nguyên Hồng:
- Phải thương nó. Nó tương tư cậu.
Nguyên Hồng tìm gặp cô gái và xin lỗi:
- Tôi là người Công giáo đạo gốc. Tôi lại là người cầm bút viết văn dạy người đạo đức. Tôi không thể lừa dối vợ tôi và làm hại đời cô.
Cô này đã khóc và sau đó bỏ đi Nam rồi lấy một người chồng Công giáo và càng kính trọng Nguyên Hồng hơn”.
Theo Giáo luật, người Công giáo không được tảo hôn, không được sống thử, không được kết hôn với người không có khả năng sinh lý bình thường để hôn nhân bền vững. Do đó, các gia đình Công giáo ổn định, bền vững, ít ly dị, ly thân hơn. Theo số liệu của Tòa án nhân dân tối cao, ở Việt Nam những năm 1977-1982, mỗi năm có trung bình 5672 vụ ly hôn. Nhưng đến năm 1991 tăng lên 22.049 vụ. Năm 1994 lên 34.376 vụ. Năm 1995 là 35.684 vụ. Bây giờ đời sống kinh tế, xã hội tăng lên thì số vụ ly hôn cũng tang 10-12% mỗi năm. Tại Hà Nội, năm 2005 có 4.100 vụ ly hôn, 6 tháng đầu năm 2006 có 2.068 đôi ra tòa ly dị. Trong khi đó, ở giáo xứ Trung Thành (xã Hải Vân, Hải Hậu, Nam Định) nơi có 6.000 Công giáo dân sinh sống suốt 18 năm (1982-2000) chỉ có hai cặp bỏ nhau. Còn ở giáo xứ Hạ Hồi (Thường Tín, Hà Nội) có 1.500 nhân danh nhưng từ năm 1945 tới nay cũng chỉ có 2 cặp đôi ly dị.
Mà vợ chồng ly tán, con cái là người thiệt thòi nhất. Không ít em trở thành trẻ hư hay tội phạm vị thành niên. Người ta đã thống kê ở trường giáo dưỡng Ninh Bình. 15,7 % trẻ phạm pháp là không có cha hoặc mẹ; 11,3 % phạm pháp là do cha mẹ ly hôn; 26 % trẻ phạm pháp do gia đình có can phạm; 28% trẻ hư vì bố mẹ nghiện rượu…
Gia đình Công giáo rất may, ít tội phạm hình sự, bố mẹ ít rượu chè, cờ bạc nên vẫn là chốn bình yên cho con cái.
Chính tính ưu việt này của hôn nhân Công giáo nên cũng có sức lôi cuốn nhiều thanh niên đến với tôn giáo này. Theo Niên giám Công giáo năm 2006, cả nước có 147.716 người gia nhập Công giáo thì số người trở lại để kết hôn với người Công giáo là 31.576 người, chiếm tới hơn 1/5. Năm 2010, số này đã tăng lên 42.272 người.
Tất nhiên, trong xã hội tục hóa ngày nay, sự bền vững của gia đình Công giáo cũng đang bị đe dọa. Theo thống kê của Tòa Giám mục Xuân Lộc- nơi có đông giáo dân nhất Việt Nam hiện nay thì năm 2016-2017, giáo phận này có 22 đôi ly thân, 2169 đôi bỏ nhau, 1738 đôi ra tòa ly dị. Trong số 239.861 gia đình Công giáo thì 212.401 gia đình hợp pháp, 1666 gia đình không hợp pháp chiếm 0,0078%. Thật ra đây là con số rất nhỏ so với hơn 1 triệu tín hữu Công giáo ở giáo phận này.
Dù sao, nếu với tình yêu thương là căn cước của Công giáo thì yêu thương cũng là cốt lõi của gia đình Công giáo để gia đình bền vững yêu thương nhau, tạo ra niềm vui và hạnh phúc cho nhau.