Đội kèn TâyPhạm Pháo đã tham dự nhiều các sự kiện chính trị, văn hóa lớn của đất nước. Ảnh: CTV |
Riêng huyện Hải Hậu có gần 100 đội kèn đồng, mỗi đội gồm 35 - 50 nhạc công. Trong đó, đoàn kèn hợp nhất giáo xứ Phạm Pháo, làng Phạm Pháo, được xem là đoàn kèn Tây lớn nhất với hơn 800 nhạc công, chia làm 12 hội kèn nhỏ. Đây được xem là đội kèn ra đời sớm nhất Nam Định, từ những năm 90 của thế kỷ trước.
Một làng quê trù phú với rất nhiều nghề truyền thống, nổi tiếng khắp xa gần: từ nghề mộc, sản xuất đồ mỹ nghệ, may công nghiệp, trồng cây cảnh… nhưng đặc biệt hơn cả là nghề làm kèn đồng và những đội kèn độc nhất vô nhị trên thế giới. Đó là làng Phạm Pháo (xã Hải Minh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định).
Đội kèn giáo xứ
Đến thăm làng Phạm Pháo, giáo xứ Phạm Pháo vào một buổi chiều Chúa nhật, khi người dân đang thu vén công việc để chuẩn bị đến nhà thờ tham dự lễ. Chúng tôi theo chân một nhạc công trong bộ đồng phục trắng với chiếc kèn trumpet trên tay đi về phía nhà thờ, ngang qua một cửa hiệu bán đồ gỗ nội thất nhưng bên trong lại treo hàng trăm chiếc kèn đủ loại. Người nhạc công giới thiệu, đây là gia đình nghệ nhân Nguyễn Văn Cường, người làm kèn nổi tiếng ở giáo xứ Phạm Pháo. Trong nhà, ông Cường đang trò chuyện cùng vài người khách, thấy có khách mới đến, ông đứng dậy chào rồi gọi cậu con trai đưa khách thăm xưởng làm kèn.
Từng là nhạc công giỏi của đội kèn quân đội những năm 70 của thế kỷ trước, ông Cường còn học nghề sửa kèn, thổi kèn từ bố mình là cụ Nguyễn Văn Biên. Bởi vậy, ông vừa là nghệ nhân sửa kèn, vừa là nhạc công, là người thẩm âm và hiệu chỉnh âm thanh kèn nổi tiếng nhất ở làng nghề Phạm Pháo.
Ông Nguyễn Văn Cường chia sẻ: “Khoảng những năm 90 của thế kỷ trước, ở Phạm Pháo có đội kèn đầu tiên. Ngày ấy đội kèn chỉ có 8 chiếc kèn các loại, mỗi khi hỏng hóc đều phải gửi lên Hà Nội để sửa lại, riêng việc đi lại đã mất mấy ngày. Giáo xứ không thế thiếu đội kèn, bởi vậy cha của tôi, cụ Biên là một trong những nhạc công đầu tiên, cũng là người khởi xướng, học và tìm tòi kỹ thuật sửa chữa kèn, làm kèn, từ đó dần tạo thành nghề mới cho làng đến ngày nay”.
Một vùng quê trù phú, nức tiếng gần xa bởi sự giàu có của nhiều nghệ nhân tỷ phú với những ngôi biệt thự khang trang, Phạm Pháo còn được biết đến là lá cờ đầu của phong trào xây dựng nông thôn mới. Phạm Pháo nổi tiếng bởi người dân biết nhiều nghề và làm giàu rất giỏi. Từ nghề mộc mỹ nghệ, nghề trồng cây cảnh, nghề may... nhưng nổi tiếng nhất vẫn là nghề làm kèn và sửa chữa kèn đồng. Sự nổi tiếng này còn bởi nó gắn với đời sống của một vùng quê xứ đạo gần như toàn tòng, dường như mọi người dân nơi đây, kể cả phụ nữ, trẻ em đều biết thổi kèn đồng.
Phạm Pháo với đội kèn hợp nhất có thể hòa tấu cùng lúc với 800 nhạc công, trong đó có 10 cây kèn helicong đòi hỏi những người có sức khỏe, có chiều cao tương đối mới mang vác và chơi được. Kèn helicong là cây kèn đi bè trầm, to nhất trong số các nhạc cụ bằng đồng. Một vị linh mục người Thụy Điển từng nói: “Tôi đã đi khắp các nước trên thế giới, những nước là cha đẻ của kèn Tây thì mỗi đội kèn nhiều nhất cũng chỉ trên dưới 100 nhạc công; ở đây có đội kèn 800 nhạc công, thật là số một thế giới!”. Đây chính là điều tự hào của người dân làng nghề kèn Phạm Pháo. Bởi người làng nghề không chỉ biết làm kèn mà còn biết thổi kèn, thậm chí thổi hay. Người làng nghề vừa là nghệ nhân, vừa là nghệ sĩ.
Gia đình anh Nguyễn Văn Hương, từ lớn đến bé có 7 người đều biết thổi kèn. Những lúc vui vẻ, khi có việc hay đơn giản chỉ là thổi để thẩm âm cho một sản phẩm mới hoàn thành, chính gian phòng khách của gia đình là một sân khấu nhỏ, mỗi người trong gia đình là một thành viên ban nhạc. Mỗi người một loại kèn cùng tấu lên những khúc nhạc du dương, hùng tráng.
Ở làng Phạm Pháo, những đứa trẻ biết thổi kèn từ nhỏ, đến 12 - 13 tuổi đã học làm kèn. Mỗi gia đình ở Phạm Pháo là một đội kèn nhỏ, mỗi gia tộc là một đội kèn lớn hơn. Làm kèn đồng và thổi kèn đồng đã là truyền thống ngấm vào máu thịt của người Phạm Pháo. Kèn thổi trong những ngày thánh lễ, trong những bữa tiệc vui gia đình, trong ngày lễ vu quy và thổi kèn cũng để chia sẻ bớt nỗi đau của những mất mát chia xa… Có thể nói, tiếng kèn Phạm Pháo gắn liền với mọi sinh hoạt trong cuộc sống của người dân giáo xứ.
Truyền thống là “ngọn lửa” giữ nghề
7 tuổi ông Cường đã biết thổi kèn, 12 tuổi bắt đầu học làm kèn, 15 tuổi đã làm “ông phó”. Sau hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghề của cha ông, có những lúc gián đoạn do đi bộ đội, do điều kiện kinh tế khó khăn, ông cũng nghĩ tiêu cực, muốn bỏ nghề vì công làm kèn không bằng công thợ xây. Nhưng với ông, nghề của cha ông truyền lại chính là máu thịt không thể nào bỏ được.
Cha ông Cường sinh ra ba người con thì cả ba anh em đều theo nghề kèn. Đến nay vừa làm nghề, ông Cường vừa truyền dạy nghề cho các con. Cả 4 người con trai của ông ai cũng đều theo nghề bố. Nghề kèn không có công việc thường xuyên, đây là một đặc thù riêng của nghề làm kèn. Để nuôi được nghề, cha con ông Cường cũng làm thêm nghề mộc, cũng là một nghề truyền thống của làng. Tuy nhiên, ngọn lửa trên bễ đồng có thể có lúc nguội đi, chỉ có ngọn lửa với những cây kèn trong lòng ông và những người dân Phạm Pháo là không bao giờ nguội tắt. Đến nay, làng Phạm Pháo vẫn giữ được nghề kèn, những gia tộc nghề chính là ngọn lửa giúp nghề kèn có chỗ đứng trong xã hội, trong cuộc sống của người Phạm Pháo.
Với sự phát triển và biến động của thị trường, người làm kèn Phạm Pháo không chỉ sản xuất kèn đồng như trước nữa, mà họ còn làm thêm việc sửa kèn, chỉnh âm lại cho những chiếc kèn từ khắp các nơi trên cả nước. Cũng bởi vậy, nghề kèn càng có thêm chỗ đứng để phát triển. Ông Cường cho biết: Trước đây ông sản xuất hầu hết các loại kèn, nhưng hiện nay xưởng kèn của ông chủ yếu sửa kèn, hoặc sản xuất những chiếc kèn rất to, loại kèn có giá thành rất đắt trên thế giới và không dễ mua, vận chuyển về nước. Những chiếc kèn nhỏ trên thị trường bây giờ chủ yếu là hàng Trung Quốc với giá rất rẻ, mà nếu gia công thì những cơ sở sản xuất như của ông không thể nào thu hồi được vốn.
Tiếng kèn như ngọn lửa hun đúc tình yêu của người Phạm Pháo với nghề làm kèn, nuôi dưỡng những tâm hồn nghệ sĩ nông dân mộc mạc, dân dã mà không kém phần lãng mạn, thanh cao.