Làng Qui Hoà theo lời cha Gioakim Đặng Đức Tuấn khai với quan huyện Mộ Đức như trên, ngày nay là thôn Qui Thuận, xã Hoài Châu Bắc, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, nơi chôn nhau cắt rốn của cha vào năm 1806. Xét về phương diện tôn giáo, Qui Hoà hay Qui Thuận đã từng là trung tâm sinh hoạt tôn tôn giáo của địa sở Gia Hựu, một địa sở kỳ cựu, sầm uất của giáo phận Qui Nhơn. Cha Gioakim Đặng Đức Tuấn là một trong ba người con của ông Đặng Đức Lành, một ẩn sĩ làm Câu địa sở Gia Hựu. Gioakim Đặng Đức Tuấn có người anh là Đặng Đức Hoá và người em là Đặng Đức Bình.
Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống đức tin và văn hoá, Đặng Đức Tuấn đã tỏ ra thông minh, nhanh trí, mỗi đêm có thể học thuộc năm mươi trang sách nho. Năm Ất Dậu (1825), Đặng Đức Tuấn dự khoa thi Hương tại Thừa Thiên. Ngay từ trường nhất (kinh nghĩa) và trường nhì (chiếu, biểu, luật, dụ), Đặng Đức Tuấn đã đậu thủ khoa nhưng vào trường ba (thơ, phú, văn sách) Đặng Đức Tuấn không may vô duyên với khoa bảng vì chép đề thi sai sót một chữ mà phải chịu lạc đề. Phải chăng cái lạc đề vô duyên ấy như dấu giáng âm để chuyển cung điệu mà Thiên Chúa đã ghi sẵn vào dòng nhạc cuộc đời Đặng Đức Tuấn?
Trong khi không đậu bảng vàng, không được thăng quan tiến chức, Đặng Đức Tuấn ở nhà làm giáo làng và sinh sống bình dị như bao người trong làng xóm, thì ở Chủng viện Penang, Mã Lai, các chủng sinh Việt Nam đang cần thầy giáo Hán Văn. Ngoài những môn học theo qui trình đào tạo linh mục của Hội Thánh, các chủng sinh Việt Nam cần phải có thêm kiến thức Hán văn để có thể đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu học tập ở Chủng viện và truyền giáo tại nước nhà. Thầy giáo Tuấn chưa biết, chưa nghĩ đến nhu cầu ấy của Hội Thánh nhưng Thiên Chúa đã biết, đã nghĩ đến thầy.
2. Khúc quanh cuộc đời Nhân chuyến viếng thăm địa sở Gia Hựu, Đức cha Stêphanô Cuénot Thể ngỏ ý với các chức việc về việc Chủng viện Penang đang cần thầy giáo Hán văn. Các chức liền giới thiệu giáo làng Đặng Đức Tuấn con ông câu Lành cho Đức cha.
Sau khi được yết kiến Đức cha Stêphanô Cuénot Thể và được biết nhu cầu của Hội Thánh Việt Nam, giáo làng Đặng Đức Tuấn vâng lời nhận lệnh Đức cha và được Đức cha Cuénot đưa vào Gia Định, chờ tàu đi Penang. Lúc bấy giờ vào khoảng đầu thời vua Thiệu Trị (1841-1847).
Đến Penang, thầy Đặng Đức Tuấn được tiếp cận với văn hóa Đông Tây. Vốn tư chất đạo đức, thông minh và bản tính hiếu học, ngoài giờ giảng dạy Hán văn tại Chủng viện Penang, thầy Đặng Đức Tuấn còn chú tâm nghiên cứu học hỏi Pháp ngữ và cả tiếng La tinh là ngôn ngữ căn bản của Hội Thánh. Sau ba năm chuyên tâm học hỏi, thầy Đặng Đức Tuấn đã đạt được trình độ hiểu biết về tiếng La tinh và Pháp ngữ một cách khả quan. Sự tận tụy chu toàn bổn phận của một người thầy, của một Kitô hữu và sự hiếu học cũng như đời sống nhân bản của một thanh niên Việt Nam chín chắn, chững chạc đã lọt vào tầm ngắm của người có trách nhiệm đào tạo linh mục cho cánh đồng truyền giáo Việt Nam.
3. Quyết chọn làm linh mục Một hôm cha Giám đốc Đại chủng viện Penang gặp ông thầy dạy Hán văn đang nghiên cứu văn phạm La ngữ, ngài hỏi: “Con có muốn học để làm linh mục không?” Thầy Đặng Đức Tuấn tỏ ý muốn làm linh mục của mình, song e ngại đã lớn tuổi. Cha Giám đốc hứa can thiệp với Đức cha Cuénot Thể để chuẩn nhận thầy vào chủng sinh của giáo phận. Sau thời gian cha Giám đốc liên lạc thỉnh ý Đức cha Cuénot Thể và được Đức cha chấp thuận, Chủng viện Penang có thêm một chủng sinh tu muộn già dặn, tinh thông văn tự Đông Tây “vừa học vừa làm”, vừa làm thầy giáo Hán văn, vừa học các môn học của Hội Thánh. Sau bảy năm dùi mài những môn học ở Chủng viện, thầy Ðặng Ðức Tuấn đã được thụ phong phó tế.
Sau khi lãnh chức phó tế ở Đại chủng viện Penang, thầy Tuấn trở về Việt Nam. Sau một thời gian phục vụ giáo phận, thầy Tuấn được Đức cha Cuénot Thể truyền chức linh mục tại Toà Giám mục Gò Thị 3 và được bổ nhiệm làm việc tại Tư Ngãi (Quảng Ngãi).
4. Lâm nạn phụng quốc hành Trong thời gian cha Gioakim Đặng Đức Tuấn làm việc tại Quảng Ngãi, tình hình chính trị trong nước rất bất ổn. Tàu chiến Pháp gây chiến ở Đà Nẵng, rồi Gia Định. Triều đình Huế nghi kỵ người Công giáo. Vua Tự Đức liên tiếp ra các sắc dụ cấm đạo vào những năm 1859, 1860, khắc nghiệt nhất là sắc dụ phân sáp năm 1860 được thực hiện triệt để vào năm 1861. Nhà thờ bị phá hủy, nhà cửa ruộng vườn các tín hữu bị tịch thu, các tín hữu bị bắt phân tán vào các làng mạc. Trước tình thế khắc nghiệt ấy, cha Ðặng Đức Tuấn phải rời nhiệm sở Quảng Ngãi, trở về Bình Định, rồi lại từ Bình Định trở ra Quảng Ngãi để vừa lẩn tránh vừa tìm cách thăm nom an ủi bổn đạo. Đó là sự tính toán và nỗ lực của con người, còn Thiên Chúa có cách ứng xử của Ngài.
Đầu năm 1862, hôm cha Tuấn tạm trú tại nhà Hương Côn ở Nga Mân 4, Tú Quới đến chơi, hai bên hàn huyên tương đắc. Tú Quới ngưỡng mộ tài đức và văn học của cha Đặng Đức Tuấn, nhưng đoán biết cha Tuấn là Công giáo, nên sợ quan quyền hay biết, không dám ém nhẹm, mà tự mình bắt thì không đành nên kêu làng tới xét hỏi. Làng đòi đóng gông, nhưng Tú Quới bảo lãnh đưa về nhà mình cơm nước. Sáng hôm sau, làng giải giao cha Đặng Đức Tuấn lên huyện Mộ Đức.
Trong thời gian bôn tẩu, nhìn vào thế cuộc, tâm hồn đau xót vì Hội Thánh bị lâm nạn, Nam kỳ bị Pháp xâm chiếm, cha Đặng Đức Tuấn soạn thảo hai bản điều trần: Hoành Mao Hiến Bình Tây sách và Minh Đạo Bình Tây sách, để chờ có dịp dâng lên triều đình.
Trong lúc bị áp giải, cha Đặng Đức Tuấn vẫn giữ hai bản Điều trần này trong gói hành lý cùng với bảo vật tùy thân là tượng Đức Mẹ. Vì sợ quan quân tịch thu xúc phạm đến Đức Mẹ, cha Tuấn đành phải gởi tượng Đức Mẹ vào một bộng cây đa bên lề đường.
Sau khi lấy khẩu cung, quan huyện biết tác giả hai bản điều trần là đạo trưởng, cha Đặng Đức Tuấn được chuyển lên tỉnh. Tại tỉnh, cha Tuấn viết tờ khai bằng bài vè bốn chữ, 88 câu (Tư Thừa Khai). Tại tỉnh, cha Đặng Đức Tuấn bị đưa ra công đường tra tấn. Lúc bấy giờ có quan Khâm sai từ kinh đô vào ghé lại tỉnh đường. Quan Khâm sai xem qua bản điều trần thấy có vấn đề quan trọng, quan Khâm sai truyền giam cha Tuấn rồi gởi hồ sơ nội vụ về triều đình. Cha Đặng Đức Tuấn được triệu về kinh đô Huế và được Thượng thư bộ binh Lâm Duy Hiệp cùng Hiệp biện Phan Thanh Giản tra vấn về đạo Công giáo và về giặc Tây đánh phá Việt Nam. Cha Đặng Đức Tuấn thuyết phục hai đại quan bằng tình lý trong sáng vói chánh ngôn, chánh lý chặt chẽ. Nhân dịp này, cha Tuấn viết thêm hai bản điều trần xin tha cho giáo dân và hiến kế làm cho dân giàu quân mạnh. Phan Thanh Giản dâng lên cho vua. Vua Tự Đức khen thưởng và nới lỏng lệnh cấm đạo. Vào khoảng tháng 3-1862, cha Đặng Đức Tuấn viết thêm hai bản điều trần nữa, bản thứ năm và thứ sáu về vấn đề cấm đạo và vấn đề kế sách giảng hòa với Pháp. Cha Đặng Đức Tuấn được vua Tự Đức cử tháp tùng sứ bộ Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Gia Định thương nghị với Pháp.
Khu lăng mộ linh mục Gioankim Đặng Đức Tuấn |
Cuộc thương nghị khai diễn vào ngày mồng một tháng Năm, năm Nhâm Tuất, tức ngày 6/6/1862. Pháp đòi ta bồi chiến phí năm triệu đồng và cắt giao trọn sáu tỉnh Nam Kỳ. Thấy điều kiện giảng hoà quá nặng, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp hỏi ý kiến cha Đặng Đức Tuấn. Cha Đặng Đức Tuấn không che dấu mà còn phát huy tư cách linh mục của mình cùng với cương vị là một nhân viên thông ngôn của sứ bộ, cha Đặng Đức Tuấn bày tỏ lập trường cương quyết giữ vững chủ quyền và sự nguyên vẹn lãnh thổ của Tổ quốc:
Sau khi hòa ước được ký kết, vua Tự Đức ra Chỉ dụ bãi bỏ lệnh phân sáp, giáo dân bị phân sáp được trở về quê cũ và được trả lại điền thổ. Đây là chính sách chung của triều đình, trong đó có phần đóng góp công lao khá quan trọng bằng những lời điều trần của cha Đặng Đức Tuấn.