Nước Trời là nơi ta cư ngụ vĩnh viễn, được sống mãi mãi và hạnh phúc vô biên. |
Thế giới ngày nay, con người bị khủng hoảng rất lớn về căn tính của mình, đặc biệt là người Kitô hữu. Chúng ta bị các trào lưu của xã hội kéo chúng ta theo một cách rất tự nhiên. Nếu không có những giây phút hồi tâm và phản tỉnh, chúng ta sẽ bị mắc bẫy thế gian. “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118, 105). Khi nào chúng ta còn cầm ngọn đèn Lời Chúa trong tay, chúng ta sẽ tiến bước mà không sợ lạc lối.
Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến trần gian để mang ánh sáng cho chúng ta. Ánh sáng đó là phục vụ, là yêu thương, là chữa lành, là rao giảng và dạy dỗ. Các tông đồ là những người đầu tiên được Ngài mời gọi thực hiện công việc ấy. Tất nhiên, mọi Kitô hữu chúng ta cũng được lãnh nhận cùng một sứ vụ ấy, trong ngày chịu phép rửa. Đó là sứ mạng và căn tính của chúng ta.
Bài đọc 1, trích sách Xuất Hành, Thiên Chúa đã nói cho dân Ixraen biết ý muốn của Ngài: Con cái Ixraen mà giữ giao ước của Đức Chúa thì sẽ được Ngài coi là dân dành riêng cho Ngài, một dân thánh (Xh 19, 5-6). Trong Đức Kitô, chúng ta cũng đã trở thành dân riêng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, hết lần này đến lần khác, con cái Ixraen đã bỏ Đức Chúa mà thờ ngẫu tượng. Chúng ta cũng thế, nhiều lần chúng ta cũng chạy theo danh-lợi-thú vui mà gạt Chúa ra khỏi cuộc đời của mình.
Trong thư gởi tín hữu Rôma, thánh Phaolô khẳng định rằng, chúng ta được cứu khỏi mọi sự dữ, khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, là nhờ giá máu của Đức Kitô, chứ không phải nhờ vào một ai khác (Rm 5, 9). Qua đó, chúng ta được mời gọi gắn cuộc đời mình vào Đức Kitô, bằng việc năng đọc Lời Chúa, cầu nguyện, đặc biệt là rước Mình Máu Thánh Chúa mỗi ngày.
Phúc Âm ghi lại rất rõ tại sao Ðức Giêsu chọn và sai 12 tông đồ đi rao giảng Nước Trời: “Ðức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt.” Cũng chính vì yêu thương thế gian mà Chúa Cha đã ban Con Một cho thế gian, mà Ngôi Lời đã nhập thể làm người để chia sẻ kiếp người và để chỉ vẽ cho con người con đường tìm được hạnh phúc thật. Vì yêu thương con người mà Ðức Giêsu đã lặn lội khắp hang cùng ngõ hẻm xứ Galilê, Giuđê và cả Samari, vừa chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, vừa rao giảng và dạy dỗ dân chúng. Vì yêu thương con người mà Ðức Giêsu đứng về phía những người nghèo hèn trong xã hội, những người bị khinh miệt và loại trừ, những người bị coi là tội nhân. Chính vì chọn lựa ấy mà Ðức Giêsu đã bị người ta ghen ghét, bắt bớ, kết án và giết chết trên thập giá như một tên tử tội! Tình yêu vô bờ ấy cứu độ chúng ta!
Ý thức về tình trạng dân chúng bơ vơ vất vưởng, và sự nghiệp thiết lập triều đại Thiên Chúa, Chúa Giêsu lo chuẩn bị một nhóm môn đệ để thay thế các mục tử bất lực, để cộng tác vào công cuộc cứu rỗi nhân trần. Khi bắt đầu công cuộc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chọn mười hai tông đồ và luôn giữ các ông bên cạnh (Mt 9, 2-4). Ðức Giêsu muốn các tông đồ chia sẻ sứ mạng của mình và sai họ đi. Nhưng trước hết và trên hết điều Ðức Giêsu muốn truyền lại cho các ông là lòng yêu thương đồng loại. Lòng yêu thương ấy phải là động lực của mọi hoạt động của người tông đồ.
Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy trách nhiệm của mỗi người môn đệ của Chúa là phải cầu nguyện cho nhu cầu đó (Mt 9, 38). “Dọc đường hãy rao giảng rằng: “Nước Trời đã đến gần”: nội dung của lời rao giảng là sự hiện diện của Nước Trời giữa trần thế, trong xã hội con người. Nước Trời xuất hiện cùng với và nơi Ðức Giêsu Nadarét.
“Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và trừ khử ma quỷ”: Lời rao giảng phải được việc làm đi kèm. Ðó là những việc cứu nhân độ thế, đáp ứng nhu cầu và sự mong đợi của những người nghèo khổ trong xã hội.
“Ðừng sắm vàng bạc hay tiền đồng để giắt lưng. Ði đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày hay cầm gậy”: Hành trang của người tông đồ không được cồng kềnh mà phải gọn nhẹ cho dễ bước. Hành trang đó là một nếp sống thanh thoát đối với của cải vật chất vàng bạc và tin cậy phó thác ở Ðấng đã chọn và đã sai đi.
Ngài đã huấn luyện các ông một cách rất thực tế. Ngài giảng dạy cho dân chúng những gì, các ông đều nghe; Ngài làm những phép lạ nào, các ông đều chứng kiến. Hơn hết, Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các ông, để dạy các ông bài học về nhân cách của người lãnh đạo. Đối với Đức Kitô, lãnh đạo là tôi tớ, lãnh đạo là phục vụ, không phải được phục vụ. Ban đầu, các tông đồ chưa hiểu được mục đích huấn luyện của Chúa Giêsu, các ông còn đang mang não trạng của trần thế, tình trạng này kéo dài cho đến cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Đến khi gặp được Chúa Phục sinh, các tông đồ mới thật sự nhận ra sứ mạng mà Chúa Giêsu muốn ủy thác cho các ông, và các ông đã được Chúa Thánh Thần biến đổi. Khi nào gặp được Chúa Phục sinh trong cuộc sống của mình, chúng ta cũng sẽ thấy mình được biến đổi.
Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng “Anh em đã được cho không thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10, 8). Mọi tài năng, mọi quyền hành đều do Thiên Chúa ban cho, tự chúng ta chẳng có gì cả, chúng ta là bất toàn. Thánh Augustine cũng đã xác tín điều đó khi nói “Sự hoàn hảo của chúng ta chính là: tìm ra những gì không hoàn hảo trong mình.” Vì thế, chúng ta được Thiên Chúa mời gọi cầu nguyện nhiều và phục vụ trong yêu thương, phục vụ vô vị lợi, cho đi mà không tính toán. Làm được điều đó, chúng ta chắc chắn sẽ nhận được Nước Trời làm gia nghiệp muôn đời.