Suy tư - Chia sẻ

Tìm lại Giáng sinh

Cập nhật lúc 12:58 22/12/2020


Mỗi mùa Giáng sinh về, lòng người hân hoan chào đón sự kiện trọng đại Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Đây cũng là dịp cho các thi nhân sáng tác thơ văn, ca vãn, nhạc kịch để mừng ngày Hài Nhi Giêsu ra đời trong mùa đông gió rét. Với tinh thần “Ôn cố tri tân” và gìn giữ tiếng Việt. Một thi phẩm quý hiếm phổ biến trong các họ đạo trước đây, nơi vùng đất Nam Bộ, nay đã đi vào dĩ vãng mai một với thời gian.

1. Thi phẩm “Giáng sinh vãn” là một tập sách dầy 30 trang in trên khổ giấy 12,50 cm x 19 cm, xuất bản lần thứ nhất năm 1884, do nhà in Imprimerie de la Mission, số 29 Rue Paul Blanchy tại Sài Gòn phát hành. Đây là một trong những nhà in Công giáo đầu tiên ở Việt Nam, thành lập từ năm 1865 rất có uy tín, càng nói lên giá trị của tác phẩm được tuyển chọn in ấn nơi đây, hầu đáp lại nhu cầu đòi hỏi của quảng đại quần chúng thời bấy giờ.
Tuy mang tên “Giáng sinh vãn” nhưng nội dung toàn bài tác giả đã diễn giải các sự kiện liên quan, từ khi Đức Trinh nữ Maria chịu thai, và cả cuộc đời Chúa Cứu thế lúc sinh ra cho đến khi công khai giảng đạo để rồi chịu chết, và sau đó từ giã trần gian về Nước Trời.
Trên tác phẩm dù tác giả không để lại danh tính, nhưng căn cứ vào một số từ ngữ sử dụng đặc thù của miền đất Nam Bộ như: - dưng (dâng) - đam (đem) - đặng (được) - nhứt (nhất) - Vưng (vâng) - dong (dung)... ta có thể kết luận tác giả nếu không phải là người sinh trưởng ở đây, thì ít nhất cũng đã từng sống một thời gian dài ở vùng đất sông nước này.

2. Về phương diện hình thức, bài “Giáng sinh vãn” bao gồm 722 câu thơ qua thi ca bình dân, không theo hẳn một thể thức nào nhất định. Thiên trường ca Giáng sinh được biên soạn đa phần theo thể thơ lục bát, thỉnh thoảng lại đan xen một cặp thất ngôn: “Mừng Chúa tôi một hồi gẫm biết/ Ở cùng nhau đến tuyết đông thiên”. Có đoạn lại cho sử dụng vần thơ tám chữ: “Mẹ rất yêu con bồi hồi thảm thiết/ Đam con đi giết, Mẹ dõi máu rơi”. Trong bài còn có khúc dài 12 chữ: “Mẹ xảy nhớ lời Thánh Si mi ong nói cùng thuở trước“. Hoặc có những câu chỉ có 4 chữ “Khiêm nhường thuận thảo/ Ba năm dạy đạo cứu chữa dân lành“. Càng khiến cho bài vãn thanh thoát, giản dị, dễ nhớ lôi cuốn độc giả hơn.
Căn cứ theo bản in ấn lần đầu năm 1884, ta có thể suy đoán ít nhất tác phẩm đã soạn thảo và phổ biến trước đó một thời gian khá lâu, được nhiều người ái mộ nên mới in ấn. Bài vãn còn sử dụng những danh từ phiên âm cổ của nhà đạo như: - Giê giu (Chúa Giêsu) - Giude (Thánh Giuse) - Gioang (Thánh Gioan) - Vêrô (Thánh Phêrô) - Latồ (Vua Philatô)... có lẽ chỉ thông dụng ở miền Nam hồi trung tuần thế kỷ XIX về trước, sau thời gian trên những phiên âm trên không còn thấy nữa. Do đó, có thể tạm kết luận tác phẩm “Giáng sinh vãn” đã được sáng tác vào khoảng sau năm 1862 ít lâu, khi vua Tự Đức (1829-1883) bãi bỏ việc cấm đạo.

3. Để độc giả tiếp cận rõ nguyên dạng của văn bản, do cố biên khảo gia Vũ Lục Thủy người có công sưu tầm, và giới thiệu trên báo Sài Gòn Nhỏ, mùa Giáng sinh 1999. Nay, chúng tôi xin phép sao lục lại đúng nguyên văn, kể cả những chỗ viết sai chính tả, và giữ nguyên những từ ngữ cổ ở miền Nam. Vì giới hạn bài báo, cũng như đáp ứng về lễ Giáng sinh, chỉ xin trích đoạn đầu với 113 câu của thiên trường ca. Trong phần này, tác giả đã đưa người đọc đi từ lúc khởi đầu Thiên thần truyền tin cho Đức Maria, thánh Giuse định tâm ra đi, cho tới lúc Chúa sinh ra, sau đó ba Vua đến Bêlem thờ lạy và được Thiên thần báo mộng phải đi đường khác mà trở về...
Giáng sinh vãn
1- Đội ơn Chúa cả ba ngôi,
Tạo hóa muôn đời đức cả chở che.
Thu đông thôi lại xuân hè,
Chúa cầm nhựt nguyệt luân xây chẳng cùng.
5- Tính thiêng vô thỉ vô chung,
Sinh nhơn dưỡng vật muôn trùng đòi nơi.
Để kho tạo hóa trên đời,
Dưỡng nuôi thiên hạ ăn chơi khắp nhà.
Thấy dân mắc lưới quỷ ma,
10-  Vui say thế tục đắm sa địa hình.
Ngôi hai chí thiện chí linh,
Lòng lành toan xuống liều mình cứu dân.
Ngôi ba phán dạy Thiên Thần,
Chọn bà Thánh Mẫu đồng trinh trong đời.
15- Thần cầm hoa xuống truyền lời,
Chường Bà làm Mẹ Chúa Trời Giáng sinh.
Maria đang tưởng xem kinh,
Thấy Thiên thần bảo phép linh, rụng rời.
Bà liền kinh khủng bày lời:
20- Tôi là tôi tá Chúa Trời dám đâu.
Thần rằng: Bà có phước mầu,
Như thiên đàng vậy suốt thâu muôn trùng.
Chúa Giáng trung phép dùng tạo hóa,
Bà thưa vưng, thoát đã chịu thai.
25-  Bà mười lăm tuổi hiền tài,
Giữ mình hơn nữa, sao mai lầu vàng.
Khác chi xích tử cưu mang,
Ngôi hai xuất thế hình càng nhiệm song.
Giude gá bạn trinh đồng,
30- Thấy bà có nghén trong lòng sợ thay.
Gẫm mình trinh tiết thảo ngay,
Nhưng e người thế chưa hay ý Bà.
Nửa đêm gậy nón trốn ra,
Thiên thần hiện xuống đón mà truyền tin.
35- Bảo về khiêm nhượng giữ gìn,
Giude biết ý càng chuyên ân cần.
Chúa Bà đi viếng người thân,
Save tuổi cả nhâm thần có thai.
Giude gánh xách chẳng nài,
40- Đàng trường dầu mệt đi hoài cũng đi.
Đến nơi mừng rỡ xiết chi,
Thánh Gioang trong dạ đòi khi nhảy trồi
Mừng Chúa tôi một hồi gẫm biết
Ở cùng nhau đến tuyết đông thiên.
45- Chẳng ngờ có lệnh Vua truyền:
Rao dân kén sổ các miền phải đi.
Chúa Bà mãn nguyệt đến kỳ,
Cưu mang mỏi mệt dạ thì gian nan.
Gió mưa lạnh lẽo cơ hàn,
50- Quán đình chặt hết khôn toan đỗ nhờ.
Giude tưởng lại bây giờ,
Vê linh còn có hang lừa một nơi.
Vã thêm mưa gió tối trời,
Giude đam Chúa vào nơi lâm tuyền.
55-Ngụ trong hang đá lừa chiên,
Canh ba giờ tý Bà liền động thai.
Quỳ bên máng cỏ không ai,
Giude còn đứng nép ngoài tưởng kinh.
Chúa Khirixitô phép linh,
60- Ngôi Hai xuất thế trót mình sinh ra.
Nằm trong máng cỏ xót xa,
Thiên thần mừng hát xướng ca vang đầy.
Thần truyền phu mục hỡi bay:
Đua nhau hái củi đốt vầy khắp nơi...
65- Chiên lừa đều thở dưng hơi,
Ngôi sao chỉ xuống sáng ngời ngoài sân.
Chúa nằm trần thương dân mà khóc!
Bà đang quỳ bỗng chúc mới hay.
Lấy khăn vấn Chúa thương thay!
70- Để khi lạnh lẽo nương tay ẵm bồng.
Mẹ thương rìu ríu Hài Đồng,
Kìa lầu Đa vít còn trông để chờ.
Chúa sao chẳng xuống mà ngơi ?
Chọn tôi làm Mẹ là người khó khăn.
75- Lấy chi cho sẵn Chúa ăn,
Lấy chi Chúa mặc vấn khăn bơ thờ !
Chiếu giường đâu sẵn bây giờ,
Dầu đèn chẳng có biết nhờ cậy ai ?
Thương dân Chúa xuống lạc lài,
80- Giữa đàng giữa sá giữa loài lừa chiên.
Chúa Bà khoăn khoái những phiền,
Tám ngày xảy thấy Thần truyền đặt tên.
Chúa Bà ẵm Chúa vào đền,
Thánh đàng dưng lễ bồng lên vừa rồi.
85- Chúa Bà bần tiện thương ôi !
Nước Dêu có lệ chuộc đôi con bò.
Chúa Bà sợ thẹn những lo,
Hết lòng mua đặng đôi câu tạm dùng.
Lễ dưng xin Chúa về cùng,
90- Đức thầy khiến đặt theo ông Mạn hòe.
Chúa Bà cãi lại chẳng nghe,
Thiên thần truyền đặt đã dè có tên.
Giêgiu cứu thế mới nên,
Đức thầy đặt lại theo tên liền về.
95- Giude chịu nhọc chẳng nề,
Dưỡng nuôi tắm giặt ủ ê giữ gìn.
Ba vua đi đến chầu nguyền,
Ba tôi ba nước cách miền trẩy sang.
Sấp mình khiêm nhượng thở than !
100- Kim ngân hương dược lễ mừng Giáng sinh.
Ba vua tỏ hết sự tình,
Đội ơn Chúa xuống liều mình vì tôi.
Nỡ nào lều ngọc vô hồi,
Chúa nằm máng cỏ hẹp hòi gian nan.
105- Đam nhau đi nghỉ mà toan ra về.
Đang khi mệt nhắp giấc mê,
Thiên thần truyền bảo chớ về nẻo xưa.
Vì E ro de chẳng ưa,
Đã sai binh phục hòng lừa giết đi.
110- Ba vua chỗi dậy tức thì,
Đem nhau tạ Chúa hồi qui vội vàng.
Thiên thần chỉ nẻo đam đàng,
Ba vua về tắt đền vàng tới nơi....
Thiên trường ca Giáng sinh vãn, chắc chắn được nhiều độc giả đương thời hâm mộ, nên thi phẩm không lâu, đã được nhà in Tân Định danh tiếng cho tái bản lại vào năm 1896 với khổ sách lớn hơn 13 cm x 20 cm, mong đem tác phẩm đến bạn đọc xa gần và truyền bá cho con cháu hậu sinh.

4. Trong sách Kinh Nguyện Toàn Niên của giáo phận Hải Phòng, Bùi Chu, Thái Bình có “Vãn dâng hoa Đức Bà”(112 câu thơ lục bát và song thất). Tiếp “Vãn Đức Bà Mân Côi” (252 câu thơ song thất lục bát) và “Vãn Kinh Cầu Đức Bà” (134 câu thơ lục bát) do danh sĩ Phêrô Phạm Trạch Thiện (1818-1903) biên soạn, tổng cộng 3 bài vãn chỉ có 498 câu, trong khi “Vãn Giáng sinh” dài tới 722 câu. Mục đích chính của bài vãn này nhằm đưa độc giả đến với cuộc đời Chúa Cứu Thế để suy gẫm và tôn kính thờ phượng Thiên Chúa thật sâu sắc đi vào lòng người, nhất là giới bình dân, nhưng với lòng khiêm tốn, theo gương Đại thi hào Nguyễn Du kết thúc truyện Kiều “Lời quê chắp nhặt dông dài/ Mua vui cũng được một vài trống canh”. Thi phẩm này tác giả cũng đã bày tỏ trong đoạn kết qua những dòng tâm tình giản dị mộc mạc, khiêm hạ như sau:
Ngày nhàn bút tả hạnh Người,
Dám khuyên ai nấy truyền nhau học đòi.
Đấng người suy gẫm sự đời,
Xét nơi thế phước là nơi tạm nhờ.
Dón làm lều tiện bơ thờ,
Một lòng tin cậy Chúa Trời Ba Ngôi.
Lạy Mẹ ghé mắt xem coi,
Ôi tá Chúa Trời kính mến làm gương.
Chúng tôi lạy Mẹ xin thương,
Nguyện cầu cùng Chúa tỏ tường 
danh Cha.
Chép làm một bẳn xem qua,
Truyền cho thiên hạ gần xa suy tường.
Qua dòng chảy của thời gian thi phẩm “Giáng sinh vãn” ngày nay ít người nhớ đến, nhưng tác phẩm khi ra đời đã góp một phần không nhỏ trong việc phổ biến cuộc đời Chúa Cứu Thế cho các tín hữu Công giáo từng thuộc lòng từ thời niên thiếu, mà còn tạo cho kho tàng thi ca nhà đạo thêm phong phú mang âm hưởng Nam Bộ, lôi cuốn lòng người lên cùng Thiên Chúa cao sang, mỗi mùa Giáng sinh về cùng nhân loại.
Vinhsơn Vũ Đình Đường
Thông tin khác:
Đức Mẹ giúp tôi đón nhận bình an của Chúa (22/12/2020)
Chiều sâu lễ Giáng sinh (22/12/2020)
Đức Giêsu vua của các vua (19/12/2020)
Những người đã chết nói với tôi (19/12/2020)
Dịu dàng hai tiếng "Cảm ơn!" (09/12/2020)
Tỉnh thức đợi Chúa đến (08/12/2020)
Tìm kiếm đức khôn ngoan (07/12/2020)
Đức Mẹ bảo tôi "Hãy đứng dậy, Chúa gọi con đây" (07/12/2020)
Đức Mẹ bảo tôi "Hãy đứng dậy, Chúa gọi con đây" (01/12/2020)
Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam
Số giấy phép: 183/GP-TTĐT cấp ngày 31/05/2017. Trưởng ban biên tập: Vũ Thành Nam
Địa chỉ ban biên tập: 59 Tràng Thi, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Điện thoại: (04) 39363013 - Email: mariadohoa@gmail.com
Website ubdkcgvn.org.vn được phát triển bởi đơn vị MIP™(mCMS).
log