Tin tức - Hoạt động

Cái mới trong cách nhìn của Vaticanô II về Giáo hội (CÁI MỚI VẪN CHƯA CŨ)

Cập nhật lúc 14:33 23/10/2009

 Hôm nay, Công đồng vẫn còn là mới mẻ và hợp thời, nhất là đối với nhiều người công giáo Việt Nam. Thực ra ngay từ khi Vaticanô II mới kết thúc, người ta đã nói rằng có lẽ cần một Vaticanô thứ III để bổ túc cho Vaticanô II. Chẳng hạn nếu như Vaticanô II dung hòa được sự chia cách giữa Giáo hoàng với giám mục, thì cũng cần một Công đồng khác để bàn đến mối liên hệ giữa giáo sĩ, cách riêng là linh mục, với giáo dân. Người ta cũng nhận xét rằng định nghĩa về giáo dân của Vaticanô II còn mang tính cách giáo luật: giáo dân không phải là giáo sĩ hay tu sĩ, và vì thế cần phải có một định nghĩa khác tích cực hơn và có tính cách thần học hơn. Ngoài ra, nhiều người ngày nay không muốn gọi Vaticanô II là Công đồng chung (concile oecuménique), vì Vaticanô II mới mở rộng những cánh cửa của hiệp nhất, còn thực tế các anh em của các Giáo Hội ngoài Công giáo vẫn chưa có tiếng nói tại hội nghị. Và còn nhiều chuyện khác nữa (31).

Quả thực Công đồng đã không làm được hết mọi chuyện, và chính Công đồng cũng ý thức rằng mình chưa thực hiện được hết mọi dự tính. Nhưng có lẽ chúng ta đều nhận rằng Công đồng đã làm một cuộc cách mạng về giáo hội học, một cuộc khai phá để đem lại luồng khí mới cho Giáo Hội như Đức Gioan XXIII từng mơ ước. Những giá trị mà Công đồng đã khám phá hoặc tái khám phá vẫn còn đang tạo nên những chuyển biến tích cực trong Giáo Hội và trong thế giới. Để kỷ niệm 20 năm ngày bế mạc Công đồng, Đức Gioan-Phaolô II đã triệu tập một Thượng Hội Đồng Giám mục đặc biệt vào năm 1985 để “họp mừng, chứng thực và cổ võ thực hiện Công đồng Vaticanô II”; các Nghị phụ đã tuyên bố rằng Công đồng quả là một hồng ân và là ân sủng mà Thiên Chúa ban cho Giáo Hội và cho thế giới trong thế kỷ này, và mời gọi mọi người học hỏi và đào sâu các văn kiện của Công đồng để đem ra thực hành (32). Riêng đối với Đức Gioan-Phaolô II, Vaticanô II là tất cả chương trình hành động của ngài: “Tôi đã được hồng ân đặc biệt là tham dự và cộng tác tích cực vào diễn tiến của Công đồng. Đối với tôi, cách riêng trong những năm của triều đại giáo hoàng của tôi, Vaticanô II đã và vẫn luôn luôn là điểm quy chiếu thường xuyên cho mọi hoạt động mục vụ của tôi, qua việc cố gắng đem các hướng dẫn của Công đồng ra áp dụng một cách cụ thể và trung thành, ở bình diện mỗi Giáo Hội cũng như ở mức độ toàn Giáo Hội. Phải không ngừng trở về với nguồn mạch này” (33). Và rồi để bước vào thiên niên kỷ mới, Đức Gioan-Phaolô II cũng đã nhiều lần kêu gọi phải áp dụng Công đồng, vì đó là một ân huệ lớn lao của Thiên Chúa: “Năm tháng qua đi, nhưng các bản văn của Công đồng vẫn không hề mất giá trị và vẻ sáng chói. [...] Đó vẫn là địa bàn (boussole) đáng tin cậy hướng dẫn chúng ta trên nẻo đường của thế kỷ đang tới” (34).
Giáo hội học của Vaticanô II cho tới nay vẫn còn là một sứ điệp mang tính thời sự và có tính chất ngôn sứ. Không biết chừng nào sẽ có Vaticanô III, nhưng ít nữa Vaticanô II vẫn còn là một luồng sáng hướng đạo cho Giáo Hội trong thời đại chúng ta, và vai trò của các Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới sẽ là đào sâu và áp dụng cách sáng tạo những định hướng của Công đồng. Xin được nêu lên một vài gợi ý nhỏ.
Trước tiên hơn lúc nào hết, Giáo Hội hôm nay vẫn còn phải được xây dựng theo mô hình hiệp thông. Lẽ dĩ nhiên như chúng ta đã nói, mẫu giáo hội học hiệp thông không phải là mà cũng không thể là kiểu mẫu duy nhất để xây dựng Giáo Hội. Tuy nhiên đó là một kiểu mẫu trọng tâm, nền tảng và thiết yếu; và nếu như sau hết mọi sự sẽ chỉ có tình yêu là tồn tại mãi mãi, thì sự hiệp thông cũng sẽ mãi mãi là sự sống và là chứng từ của Giáo Hội đối với thế giới. Nhân loại hôm nay bị xâu xé vì chiến tranh và hận thù, từ chiến tranh quốc gia, chiến tranh kinh tế đến chiến tranh sắc tộc hay tôn giáo, và con người trở thành tế vật hy sinh của những tham vọng thống trị. Vì thế con người thời nay chờ đợi nơi Giáo Hội một chứng từ về sự hòa giải và về khả năng hiệp nhất trong đa dạng; điều đó chỉ có được khi Giáo Hội sống hiệp thông theo kiểu mẫu của mô hình hiệp thông nơi Chúa Ba Ngôi. Công đồng nhắc lại một lời của Đức Gioan XXIII: “Những gì liên kết các tín hữu còn mạnh hơn những gì chia rẽ: hiệp nhất trong những gì chính yếu, tự do trong những gì nghi ngờ, bác ái trong hết mọi sự” (MV 92).
Bên cạnh chiến tranh bom đạn là cuộc chiến của đồng tiền và kỹ thuật. Chúng ta đang dần dần tiến lên một xã hội giàu mạnh và hiện đại hóa. Nhưng cái thách đố lớn lao của xã hội hôm nay là người ta chạy theo công việc và lo làm giàu nên không còn giờ để sống cho nhau nữa. Nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, càng ngày càng có nhiều người nghèo hơn, nhiều người cô đơn và bị bỏ rơi hơn. Xã hội hiện đại hóa cũng là một xã hội công nghiệp hóa: tất cả đều chuyển sang máy móc tự động, ngay cả con người cũng trở thành một cỗ máy trong xưởng máy lớn lao của thế giới. Hiện đại hóa còn là đô thị hóa, đời sống trở nên nhộn nhịp đông đúc, nhưng trong đó mỗi người chỉ là một con số vô danh giữa một đám đông xô bồ. Con người hôm nay cần đến một tình yêu có khả năng ôm ấp, cảm thông và chia sẻ với những nỗi khổ đau và cô đơn của mình, và như vậy một Giáo Hội của sự hiệp thông sẽ trở thành niềm hy vọng cho những người đang đi tìm một mái nhà ấm áp thân yêu.
Kế đến, phạm trù bí tích áp dụng vào Giáo Hội mang một ý nghĩa hiện sinh và giải thích lý do sự hiện diện của Giáo Hội trong thế giới. Trung thành với lệnh truyền của Đức Kitô, Giáo Hội đã lên đường với hoài bão làm cho tất cả các dân tộc trở thành môn đệ của Chúa. Bao nhiêu lớp người đã vất vả ra đi gieo hạt giống Tin mừng, bao nhiêu máu đào của các vị tử đạo đã thấm vào mảnh đất của các dân tộc, rất nhiều chương trình truyền giáo, rất nhiều nỗ lực canh tân, nhưng hôm nay, sau hai mươi thế kỷ, Giáo Hội vẫn còn là “đoàn chiên nhỏ bé” (Lc 12, 32) giữa cộng đoàn nhân loại đông đảo. Dù công việc loan báo Tin Mừng đã đem lại nhiều kết quả lớn lao cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, Giáo Hội càng ngày càng trở thành thiểu số giữa lòng thế giới, nhất là khi tinh thần tục hóa ngày càng thấm nhập vào mọi cơ cấu và lãnh vực của đời sống con người. Rất nhiều khi một cách nào đó, các cộng đoàn Kitô hữu giống như những kẻ bị lưu đày giữa thế gian, như những ốc đảo giữa các đại dương mênh mông. Giáo Hội sẽ chẳng bao giờ còn được phép mơ thấy một vương quốc Kitô cạnh tranh hoặc bao trùm các vương quốc trần gian. Nhưng không phải vì thế mà Giáo Hội thất vọng. Giáo Hội có con đường của riêng mình. Công đồng đã diễn tả thân phận và sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới bằng những lời mà có lẽ mãi mãi vẫn không bao giờ lỗi thời: “Dân tộc thiên sai, tuy hiện nay chưa bao gồm toàn thể nhân loại và đôi khi tỏ ra như một đàn chiên nhỏ, nhưng lại là một mầm mống vững chắc nhất của sự hiệp nhất, của niềm hy vọng và của ơn cứu độ, cho toàn thể nhân loại. Dân tộc thiên sai ấy được Đức Kitô thiết lập để thông dự vào sự sống, bác ái và chân lý, được Người sử dụng như khí cụ cứu độ cho mọi người, và được sai đi khắp thế giới như ánh sáng trần gian và muối đất” (GH 9).
Sau hết, Công đồng đã mở ra cho Giáo Hội một viễn ảnh mới để đi vào lòng thế giới hôm nay, đó là giáo hội học của phục vụ. Như chúng ta đã trích lời của Đức Phaolô VI, một cách nào đó Giáo Hội từ nay mang một danh hiệu mới, đó là đầy tớ của nhân loại (35). Tinh thần phục vụ thấm nhập sâu xa vào trong các văn kiện của Vaticanô II và đã trở thành một trong những điểm thiết yếu của Công đồng. Tinh thần phục vụ ấy ngày càng tỏ ra cần thiết và hợp thời. Chỉ nói riêng tại châu Á, nỗ lực của Liên Hội Đồng Giám mục châu Á (FABC) là đem tinh thần phục vụ của Công đồng vào trong bối cảnh nghèo đói, đa văn hóa và đa tôn giáo của lục địa lớn lao này, trong đó các Kitô hữu chỉ là một thiểu số 2% (36). Càng ngày các Giám mục của châu Á càng ý thức rằng chỉ có con đường phục vụ mới có khả năng thâm nhập vào các cơ cấu và giá trị của xã hội để phúc âm hóa chúng. Ba mươi ba năm sau Công đồng, Thượng Hội đồng Giám mục về châu Á đã làm sống lại tinh thần của Vaticanô II và đồng thanh tuyên bố: “Như Đức Giêsu, ước gì Giáo Hội ngày càng trở thành một Giáo Hội đầy tớ và tiếp tục sứ mạng yêu thương và phục vụ các dân tộc châu Á”. Theo các Nghị phụ, cách thức hiện diện đặc thù của Giáo Hội tại châu Á, đó là phục vụ. Trở thành đầy tớ là một trong các nhân tố góp phần biến đổi bộ mặt tây phương của Giáo Hội thành bộ mặt mang tính châu Á . Đây là một đòi hỏi ưu tiên, vì trong bối cảnh châu Á, phục vụ như một tôi tớ là con đường thích hợp nhất để thông truyền sứ điệp Tin mừng, là cách hiện diện dễ đi vào lòng người nhất, và là cách tốt nhất để sống chung hòa bình với các tôn giáo khác.
Như vậy cái mới của giáo hội học của Vaticanô II vẫn chưa phải là cũ đối với chúng ta. Để kết thúc, xin được trích lại lời của Đức Cha Chủ tịch Ủy ban Giám mục về Văn hóa trong hội thảo chuyên đề “Bốn mươi năm sau Vaticanô II nhìn lại”: “Nhìn lại Vaticanô II là một điểm tái khởi hành. [...] Nếu trong bốn thập niên qua, Công đồng đã khơi lên bao sức sống được mệnh danh là luồng gió mới cho Giáo Hội hoàn vũ cũng như cho Giáo Hội địa phương, thì hôm nay thiết nghĩ, Vaticanô II cũng vẫn còn đó nền tảng sức sống làm thành nguồn cảm hứng mới cho những cộng đoàn Giáo Hội thiết tha với sứ mệnh lên đường. Duc in altum. Hãy chèo ra chỗ nước sâu”.
 
 
 
 
 
 
(1) Nói một cách tổng quát, hai mươi Công đồng trước đây xoay quanh mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Nhập thể, Chúa Thánh Thần, ân sủng, các bí tích, hoặc tái lập hiệp nhất và kỷ luật trong Giáo Hội. Người ta cũng đã bàn về các thành phần trong Giáo Hội, chẳng hạn như chức linh mục hoặc quyền tối thượng của Đức Giáo Chủ, nhưng chưa có một Công đồng nào dành được một chương nguyên vẹn để nói về mầu nhiệm Giáo Hội.
– Ký hiệu viết tắt: GH = Hiến chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium); MV = Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay (Gaudium et Spes); GM = Sắc lệnh về nhiệm vụ của Giám mục (Christus Dominus); HN = Sắc lệnh về hiệp nhất (Unitatis Redintegratio); TG = Sắc lệnh về truyền giáo (Ad Gentes); TD = Tuyên ngôn về tự do tôn giáo (Dignitatis humanae).
(2) Chẳng hạn trong các văn kiện của Vaticanô II, có 93 lần trích dẫn các Công đồng trước, trong đó 21 lần từ Trentô và 24 lần từ Vaticanô I; 201 lần trích dẫn hoặc qui chiếu về các văn kiện của Đức Piô XII. Xem E. Innocenti, Le citazioni pontificie nei documenti conciliari, trong Concretezza (16-7-1966) 6-10.
(3) Xem Văn bản gửi cho Ủy Ban chuyên môn ngày 2-7-1960, trong S. Garofaro (dir.), Dizionariodel Concilio Ecumenico Vaticano Secondo, Roma 1969, cột 125. Chính Đức Piô XI và XII cũng đã có ý tiếp tục Vaticanô I nhưng chưa thực hiện được. Và khi chuẩn bị Công đồng, người ta đã nêu lên câu hỏi: đây là một Công đồng mới hay là nối tiếp Vaticanô I.
(4) Diễn văn ngày 8-12-1969, trong Documentation catholique 1554 (1970) 10 tt.
(5) Xem H. Pottmeyer, Continuità e innovazione nellecclesiologia del Vaticano II. Linflusso del Vaticano I sullecclesiologia del Vaticano II e la ri-recezione del Vaticano I alla luce del Vaticano II, trong G. Alberigo (ed.), Lecclesiologia del Vaticano II: dinamismi e prospettive, Bologna 1981, 71-95.
(6) Xem A. Acerbi, Due ecclesiologie. Ecclesiologia giuridica ed ecclesiologia di comUNI0Ne nella “Lumen Gentium”, Bologna 1975.
(7 Xem A. Dulles, Models of the Church, New York 1987. Tác giả trình bày năm mẫu căn bản: Giáo Hội như một định chế, như sự hiệp thông mầu nhiệm, như bí tích, như người loan báo Tin mừng, như người tôi tớ phục vụ. Vị Hồng Y này đề nghị một mẫu mới: Giáo Hội là cộng đoàn các môn đệ Đức Kitô.
(8) R. Bellarminô, De Ecclesia, III, 2, Colonia 1619, 108.
(9) Xem J. Rigal, Le mystère de lEglise. Fondements théologiques et perspectives pastorales, Paris 1996, 69-70.
(10) XemY.Congar,Le Concile de Vatican II. Son Eglise. Peuple de Dieu et Corps du Christ,Paris 1984, 10.
(11) Huấn dụ của Đức Piô IX với Cơ Mật Viện, Multis gravibusque, ngày 17-12-1860. Đức Piô IX nhấn mạnh nhiều lần với Cơ Mật Viện: Singulari quadam (9-12-1854), Maxima quidem laetitia (9-6-1862); rồi trong thông điệp Vix dum a Nobis (7-3-1874). Mệnh đề sau đây đã bị ngài lên án: “Giáo Hội không phải là một xã hội đích thực và hoàn hảo, hoàn toàn tự do, và không được hưởng các quyền riêng và trường tồn đã được Đấng Sáng Lập thần linh ban cho; chính quyền dân sự mới có quyền xác định các quyền của Giáo Hội và những giới hạn để thực thi các quyền này” (Syllabus, mệnh đề 19, 8-12-1864: DS 2919). Sau này, Đức Lêô XIII cũng nhiều lần đề cập đến vấn đề này (Diuturnum illud, 29-(6-1881; Immortale Dei, 1-11-1885: DS 3167; Libertas praestantissimum, 20-6-1888), rồi Đức Piô X (Compendio della dottrina cristiana, 1905), Đức Bênêđitô XV (Providentissima Mater Ecclesia, 1917), Đức Piô XI (Divini illius magistri, 1929: DS 3685).
(12) Mansi 51, 543.
(13) Xem A. Antòn, Lo sviluppo della dottrina sulla Chiesa nella teologia dal Vaticano I al Vaticano II,Lecclesiologia dal Vaticano I al Vaticano II, Brescia 1973, 64-69; O. Rousseau, La Constitution “Lumen Gentium” dans le cadre des mouvements rénovateurs de théologie et de pastorale des dernières décades, Unam Sanctam 51 b, 35-56; B. Kloppenburg, Ecclesiology of Vatican II, Chicago 1974, 1-10; R. Aubert, La théologie catholique au milieu du XXe siècle, (Cahiers de lactualité religieuse), Tournai 1954.
(14) Acta Synodalia, I/IV, 12-121.
(15) Acta Synodalia, I/IV, 142 tt. Các nhận xét khác cũng tương tự: G. DAvak, sđd., 148-150; A. Bea, sđd, 227-230, vv...
(16) Đức Gioan XXIII: Audience générale, 25-10-1961, trong Acta et Documenta Concilio Oecumenico Vaticano II Apparando, II/I, 117; Diễn văn khai mạc Công đồng, 11-10-1962, trong Acta Synodalia Sacrosancti Concilii Vaticani II, II/I, 172; Nuntius radiophonicus, 11-9-1962, AAS 54 (1962) 680. Đức Phaolô VI: Diễn văn khai mạc khóa IV, 14-9-1965, AAS 57 (1965) 79; Diễn văn kết thúc khóa IV.
(17) Thượng Hội Đồng Giám Mục 1985 (kỷ niệm 20 năm bế mạc Công đồng Vaticanô II), Relatio finalis, Enchiridion Vaticanum 9: 1980.
(18) A. Acerbi (sđd) chứng tỏ rằng Công đồng vẫn giữ lại các yếu tố của một giáo hội học pháp lý, và nhiều người lấy làm tiếc vì Vaticanô II đã không đẩy vấn đề tới cùng. Nhưng thực ra các kiểu mẫu hay phạm trù giáo hội học không thể loại trừ nhau nhưng bổ túc cho nhau, vì Giáo hội cũng mang cả chiều kích xã hội nữa.
(19) Theo Y. Congar, Le Concile de Vatican II, sđd, 19.
(20) Cyprianô, De Oratione Domini 23, PL 4, 553.
(21) G. Philips, LÉglise et son mystère au deuxième Concile du Vatican II, t. I, Paris 1967, 91.
(22) Xem K. Rahner, Rapporto tra natura e grazia, trong Id., Saggi di antropologia soprannaturale, Roma 1969, 43-78; Id., Ateismo e cristianesimo implicito, trong Id., Nuovi Saggi, III, Roma 1969, 217-248.
(23) Xem MV 42 §5; 76; TD 13.
(24) “Une chose est certaine: lévolution sest faite dans le sens dune prise de conscience croissante par la “cité temporelle” de son autonomie vis-à-vis de la “cité spirituelle”, et réciproquement du désengagement de cette dernière par rapport à la cité temporelle. Mais alors que leur diversité même a pu les faire apparaýtre parfois non seulement distinctes, mais rivales et opposées, aujourdhui, grâce à Dieu, et de plus en plus – et Nous voudrions souhaiter quil en soit ainsi dans le monde entier – elles ne se posent plus en adversaires. En ce qui concerne lÉglise, en tout cas, son désir de collaboration avec les pouvoirs de ce monde est sans arrière-pensée: les actes du Concile lont prouvé avec éclat” (Discours au Corps diplomatique, 8 -1-1966, AAS 58 [1966] 144).
(25) Diễn văn ngày 4-10-1965, AAS 57 (1965) 877.
(26) Diễn văn ngày 14-9-1964, trong Documentation catholique (1964) 1222.
(27) Bài giảng tại khóa IX của Công đồng, 7-12-1965, AAS 58 (1966) 58.
(28) Y. Congar, sđd, 27.
(29) Cf. Acta Synodalia, II/I, 215-274.
(30) Thực ra gần một nửa Nghị phụ muốn tách riêng lược đồ về Đức Maria. Ngày 29-10-1963, câu hỏi được đặt ra cho các Nghị phụ là: có muốn đổi lược đồ về Đức Trinh Nữ Mẹ Giáo Hội thành chương cuối cùng của lược đồ về Giáo Hội không? Trước hết, có chấp nhận xen lược đồ vào Hiến chế không: trong số 2193 Nghị phụ có mặt, thì 1114 vị bỏ phiếu thuận, 1074 phiếu chống. Kế đến, nếu xen, thì xen vào chỗ nào: Mẹ Thiên Chúa liên kết mật thiết với mầu nhiệm Giáo Hội, nhưng giáo lý về Đức Maria lại vượt quá giáo lý về Giáo Hội. Do đó chỉ có thể đặt vào phần cuối của Hiến chế.
(31) Xem G. Alberigo (ed.), Lecclesiologia del Vaticano II: dinamismi e prospettive, Bologna 1981; R. Latourelle (ed.), Vatican II. Bilan et perspectives. Vingt-cinq ans après(1962-1987), 3 tập, Montréal-Paris 1988; Congresso del ventennio dal Concilio Vaticano II (Roma, 18-21/02/1985), 3 tập, Roma 1985.
(32) Thượng Hội Đồng Giám mục 1985, Relatio finalis, Enchiridion Vaticanum 9: 1780; Nuntius, ibid., 1770-1773.
(33) Diễn văn ngày 30-5-1986, số 5, trong AAS 78 (1986) 1273.
(34) Tông thư Novo Millennio ineunte, 6-1-2001, số 57. Xem tông thư Tertio millennio adveniente,
(35) Bài giảng của Đức Phaolô VI tại khóa IX của Công đồng, 7-12-1965, tức là áp ngày bế mạc Công đồng: AAS 58 (1966) 58.
(36) Xem Sứ điệp của FABC trong cuộc gặp gỡ lần thứ I tại Manila, 29-11-1970, và các văn kiện khác tiếp the. trong Facoltà Teologica Interregionale Milano, 7-12-1965, AAS 58 (1966) 57-58. 10-11-1994, số 36.

(Hết)

ĐGM. Giuse Nguyễn Năng
Thông tin khác:
Cái mới trong cách nhìn của Vaticanô II về Giáo hội (NHÃN QUAN CỦA VATICANÔ II) (23/10/2009)
Khuôn mặt nào cho linh mục tương lai ? (23/10/2009)
Cái mới trong cách nhìn của Vaticanô II về Giáo hội (CÁCH NHÌN VỀ GIÁO HỘI TRƯỚC VATICANÔ II) (23/10/2009)
“Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam” (15/10/2009)
Chiến đấu chống đói nghèo là một vấn đề liên quan đến đức tin (15/10/2009)
Ơn Toàn xá trong Năm Thánh 2010 (Phụ lục Thư Công bố Năm Thánh 2010) (14/10/2009)
Thư Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi Cộng đồng Dân Chúa công bố Năm Thánh 2010 (14/10/2009)
Làm gì để xứng đáng là tổ chức thành viên MTTQVN (08/10/2009)
Bạc Liêu: Đại hội những người công giáo lần thứ hai (07/10/2009)
Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam
Số giấy phép: 183/GP-TTĐT cấp ngày 31/05/2017. Trưởng ban biên tập: Vũ Thành Nam
Địa chỉ ban biên tập: 59 Tràng Thi, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Điện thoại: (04) 39363013 - Email: mariadohoa@gmail.com
Website ubdkcgvn.org.vn được phát triển bởi đơn vị MIP™(mCMS).
log