Thánh Maximiliano Kolbe sinh ngày 7/01/1894 tại Zundska Wola, nước Ba Lan. Cha mẹ đặt tên cho ngài là Raymond Kolbe. Lớn lên, thánh nhân có lòng ước ao phụng sự Chúa, tôn kính Đức trinh nữ Maria và nhiệt tâm phục vụ các linh hồn. Ngài gia nhập chủng viện Phanxicô lúc 16 tuồi, chuyên cần học hỏi triết học, thần học, kinh tế và tập rèn nhân đức mỗi ngày. Thánh nhân đã đậu bằng tiến sĩ triết học và thần học, nhưng vẫn đam mê về khoa học. Thánh Maximiliano Kolbe lãnh nhận tác vụ linh mục vào năm 1918, lúc ngài mới 24 tuổi.
Với thánh nhân, Đức Maria là người mẹ hiền hằng quan tâm nâng đỡ và dắt dìu ngài trên bước đường nên thánh. Ngài phó dâng cho Đức Mẹ mọi công việc mục vụ, cũng như chính bản thân mình. Tại quê hương Ba Lan, thánh Kolbe đã thiết lập hội Đạo Binh Đức Mẹ Vô Nhiễm. Vào năm 1927, thánh nhân tiếp tục thành lập hội “Thành đô Đức Mẹ Vô Nhiễm”; hội này phát triển mạnh ở Ba Lan và nhiều nước khác: Mười năm sau khi hội “Thành đô Đức Mẹ Vô Nhiễm” ra đời, đã có 62 tu sĩ sang Nhật Bản truyền giáo, và ngài cũng đã thành lập một vườn Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Nagasaki. Thánh nhân xác tín: “Chúng ta sẽ có được mọi điều dễ dàng hơn nhờ Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm, đấng được Thiên Chúa chí nhân ủi thác việc ban phát lòng thương xót của Người. Thật vậy, điều chắc chắn là ý muốn của Đức Maria là chính ý muốn của Thiên Chúa đối với ta. Khi tự hiến mình cho Mẹ, chúng ta trở thành dụng cụ của lòng thương xót Chúa trong tay Mẹ, như Mẹ là dụng cụ trong tay Thiên Chúa”.
Năm 1939, Đức quốc xã xâm chiếm Ba Lan, thánh Kolbe và các tu sĩ khác bị bắt, nhưng khoảng ba tháng sau, tất cả được thả tự do vào ngày lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tuy nhiên, ngài lại bị bắt vào ngày 17/02/1941 và được giam trong trại tập trung Auschwitz, với số áo tù là 16670. Vào ngày 31/7/1941, một tù nhân trốn thoát, vị sĩ quan bắt 10 người khác phải chết thay, theo quy định của trại; trong số đó có anh Phanxicô Gajowniczed. Anh ta kêu van khóc lóc, vì còn mẹ già con thơ không ai nuôi dưỡng. Thấy cảnh tượng bi thảm này, thánh Kolbe đã tự nguyện chết thay cho anh. Ngài bước ra khỏi hàng và nói: “Tôi muốn thế chỗ ông kia. Ông ấy còn có gia đình, vợ con”. Thánh nhân bị giam chung với các tù nhân khác để cho chết dần chết mòn trong một hầm thật tăm tối. Thay vì kêu la, ngài lại hát thánh ca tạ ơn Thiên Chúa và Đức Mẹ. Vào ngày áp lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời (14/8/1941) chỉ còn 4 tù nhân sống sót. Và tên cai ngục đã chấm dứt cuộc đời của ngài bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay; xác cha được thiêu cháy vào ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, Đấng mà ngài hằng tôn sùng và yêu mến.