Trước hết, đây là cuốn chuyên luận được nhìn dưới lăng kính triết học. Tác giả không hề dùng khái niệm “ biện chứng triết học” nhưng cách xem xét biện chứng, phương pháp biện chứng hiển thị rõ ràng trong từng trang sách. Ngay tên cuốn sách đã cho thấy tác giả muốn mổ xẻ sự tương tác biện chứng giữa hai đối tượng: đạo Công giáo và văn hóa Việt Nam. Một vài tác giả khi trình bày vấn đề này thường chỉ thấy một chiều, nghĩa là chỉ thấy được mặt tích cực hoặc tiêu cực nhằm minh giáo, hộ giáo hoặc phủ nhận đạo Công giáo. Cuốn “ Ảnh hưởng qua lại” đã vượt qua được những thái cực đó để có cái nhìn khách quan trung thực hơn và cũng rất “triết học” khi nhận xét: “Rõ ràng, khi đạo Công giáo đóng dấu ấn của mình lên văn hóa Việt thì văn hóa Việt Nam cũng choàng trang phục dân tộc lên đạo Công giáo. Đây là sự tương tác biện chứng hai chiều và kết quả là làm phong phú cả hai” ( tr.18). Như vậy, không chỉ văn hóa Việt có lợi được làm giàu mà đạo Công giáo cũng được đổi mới mình để trở thành “đạo Công giáo Việt Nam chứ không phải là đạo Công giáo ở Việt Nam” (tr.124).
Những ai đã học triết học biện chứng đều biết rõ, chẳng có sự vật nào đơn độc một mình. Nó luôn bị chi phối, tác động của nhiều yếu tố. Cũng chẳng có sự vật nào tác động đơn phương, một chiều. Bởi vậy, đạo Công giáo ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam, đóng dấu ấn lên văn hóa Việt thì văn hóa Việt cũng ảnh hưởng trở lại, biến đổi đạo Công giáo đến từ phương Tây xa lạ, trở thành một tôn giáo gần gũi với văn hóa dân tộc. Hơn nữa, ảnh hưởng của đạo Công giáo với văn hóa Việt cũng không hẳn hoàn toàn chỉ có mặt tích cực. Dân gian vẫn thường nói: hoa hồng nào chẳng có gai và huân chương nào cũng có hai mặt. Đạo Công giáo cũng thế. Nó có nhiều đóng góp tích cực với văn hóa Việt Nam như tác giả đã trình bày khá thuyết phục từ trang 21 đến trang 98, khó có thể bác bỏ, thì mặt tiêu cực của nó cũng được tác giả chỉ ra từ trang 98 đến trang 120, cũng rất thuyết phục người đọc.
Nội dung của cuốn “ Ảnh hưởng qua lại” cũng đem lại nhiều tri thức mới cho độc giả.
Cuốn sách ngoài phần mở đầu và kết luận, được chia làm 3 chương. Chương 1 có tên gọi: “ Dấu ấn của đạo Công giáo trong văn hóa Việt Nam”. Chương này chủ yếu trình bày những đóng góp của đạo Công giáo với văn hóa Việt. Về vấn đề này, rải rác đây đó cũng có tác giả, tác phẩm đề cập tới nhưng cuốn “ Ảnh hưởng qua lại”, có lẽ là tác phẩm lý giải hệ thống đầy đủ nhất. Có 4 nhóm đóng góp của đạo Công giáo được ghi nhận: là cầu nối giao lưu văn hóa Việt Nam và thế giới; sáng tạo ra chữ Quốc ngữ; làm phong phú văn hóa Việt qua lễ hội, văn học, nghệ thuật, báo chí Công giáo và giáo lý Công giáo góp phần xây dựng lối sống lành mạnh trong xã hội.
Có vấn đề không mới, đã được nghe nói nhiều lần như việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ nhưng tác giả cuốn “ Ảnh hưởng qua lại” vẫn đưa ra những thông tin mới hấp dẫn. Chẳng hạn, mặc dù xây dựng và truyền bá chữ Quốc ngữ, nhưng đạo Công giáo vẫn là nơi lưu truyền các ấn phẩm Hán- Nôm, các trường Công giáo vẫn buộc chủng sinh phải học Hán tự. Hay bàn về danh nhân văn hóa Công giáo Nguyễn Trường Tộ (1830-1871), tác giả không chỉ nói đến lòng yêu nước, tư tưởng canh tân mà còn đưa ra nhận xét táo bạo: “Nguyễn Trường Tộ không chỉ là nhà cải cách có lòng yêu nước, ông còn là một triết gia lớn ở Việt Nam thế kỷ XIX” ( tr.69). Một vài học giả cả trong và ngoài nước vẫn cho rằng ở Việt Nam không có triết học nên cũng không có triết gia mà chỉ có nhà tư tưởng. Điều này không đúng. Phương Tây cũng không tự nhiên có hệ thống triết học đồ sộ như ngày hôm nay. Họ cũng phải xây đắp, nhặt nhạnh những tư tưởng triết học của từng cá nhân. Một câu nói “ Người ta không thể tắm hai lần ở một dòng sông” của Heraclit ( 544-483 tr CN) chưa thể xây dựng thành trường phái biện chứng triết học nhưng từ những tư tưởng đó nó đã hình thành. Vậy tại sao phát hiện của Nguyễn Trường Tộ từ cuối thé kỷ XIX: “ Ánh sáng cũng là vật chất trong vũ trụ” (tr.71) lại không thể coi ông là một triết gia?
Chương 2: “Ảnh hưởng của văn hóa Việt Nam với đạo Công giáo ở nước ta” là khám phá có ý nghĩa nhất của cuốn sách. Đây đó đã có tác giả nói đến quá trình Việt hóa đạo, hội nhập văn hóa dân tộc nhưng cho đó là kết quả của “ sự nhập gia tùy tục” hay là để đạo Công giáo tồn tại chứ không phải là do sự ảnh hưởng của văn hóa Việt. Tác giả, không phủ nhận sự canh tân, đổi mới của Vtican II đối với sự thay đổi của giáo hội Công giáo Việt Nam nhưng rõ ràng sự tác động của văn hóa Việt đã trực tiếp làm biến đổi đạo Công giáo cả trên hai phương diện là hội nhập văn hóa dân tộc và đồng hành cùng dân tộc. Những bài học đau xót trong lịch sử dưới triều Nguyễn về sự phản ứng của xã hội, văn hóa Việt với đạo Công giáo khi tôn giáo này bác bỏ việc thờ cúng tổ tiên đã buộc các nhà truyền giáo ở Việt Nam phải thay đổi thái độ về vấn đề này trước cả khi Vatican ban hành Huấn dụ Plane compertum est ngày 8-12-1939 cho phép người Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên được thờ cúng tổ tiên bằng hương hoa (tr.144).
Chương 3, tác giả vạch ra xu hướng của mối quan hệ giữa đạo Công giáo và văn hóa dân tộc trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. Vẫn còn có những khác biệt trong một số điểm giữa giáo lý và chính sách, thậm chí có cả chống đối ở nơi này, chỗ kia nhưng cái tương đồng đã hiện hữu nhiều hơn và đang được vun đắp bằng sự chung tay của cả cộng đồng trong nước, bà con người Việt ở nước ngoài và cả thiện chí của Tòa thánh Vatican nên tác giả đã đủ cơ sở để khẳng định: “ Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” là xu hướng tất yếu của mối quan hệ qua lại giữa đạo Công giáo và văn hóa Việt Nam” (tr.263).
Do tham khảo được nhiều tài liệu nhất là từ phía giáo hội và được cập nhật suốt lịch sử đạo Công giáo từ khi nó có mặt ở Việt Nam đến nay, nên cuốn “ Ảnh hưởng qua lại” đem lại cho người đọc nhiều thông tin mới. Đạo Công giáo ở Việt Nam có hàng chục tên gọi , tác giả đã giành hẳn 4 trang (21-24) để làm rõ nguồn gốc từng tên gọi và đề nghị nên gọi là đạo Công giáo mặc dù trong nhiều sách báo và cả trên chứng minh thư mục tôn giáo vẫn ghi “ Thiên Chúa giáo”, nhưng tác giả cho rằng ghi như thế là không chính xác cả về khoa học cũng như thực tế vì ở Việt Nam không có “ Thiên Chúa giáo” mà chỉ có “ Công giáo” mới được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân năm 1980 mà thôi (tr.25). Có khái niệm nghe rất quen : “ làng xôi đỗ” nhưng tác giả đưa ra cách giải thích lý thú: “ Gạo nếp xôi không thể ngon bằng khi có đỗ. Nó vừa có hương thơm của nếp, vị bùi của đỗ xanh. Một món ẩm thực rất Việt. Khái niệm này đã nói lên sự gắn kết, hòa quyện từ bao đời tuy không cùng tôn giáo nhưng cùng chung một giếng nước đầu làng, một mái đình rêu phủ”. Chính cái tình “ làng xôi đỗ” đã tạo ra bầu khí an bình ở Việt Nam dù cũng có rất nhiều tôn giáo nhưng không có máu đổ vì lý do khác tôn giáo thậm chí cùng tôn giáo như ở đó đây trên trên thế giới.
Mặc dù là chuyên luận nhưng người đọc không cảm thấy khô khan khi đọc hết 320 trang sách. Với cách tiếp cận triết học- văn hóa, cuốn “ Ảnh hưởng qua lại” đã chỉ ra những đóng góp của đạo Công giáo “với đất nước, với dân tộc trong suốt chặng đường lịch sử dựng nước và giữ nước” (tr.299) đồng thời cũng “ chỉ ra rằng, chỉ có đi với dân tộc, tôn giáo này mới có sức sống và có nhiều đóng góp cho quê hương” (tr.286). Đó cũng là cái nhìn mới về tôn giáo này và cuốn “ Ảnh hưởng qua lại” sẽ là cuốn sách công cụ cho tất cả những ai muốn tìm hiểu, nghiên cứu về đạo Công giáo. Đúng như lời Giám mục Nguyễn Văn Sang- nguyên Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội đồng GMVN đã viết trong lời giới thiệu: “ Cuốn sách của TS. Phạm Huy Thông hẳn sẽ là chuyên luận thích thú không chỉ với giới nghiên cứu mà cả độc giả trong và ngoài Công giáo” (tr.8).
Ước mong sẽ có nhiều cuốn sách như thế của chính tác giả và các nhà nghiên cứu trong tương lai.
*Học viện CT-HC Quốc gia HCM