Thánh Kinh không minh nhiên nói về việc Đức Maria ngay từ thuở ban đầu đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ, nhưng lòng sùng kính cá nhân hay trong cộng đoàn địa phương đã có từ lâu. Cộng đoàn tín hữu với lòng thành thật đã tin rằng Đức Maria đã được ơn vô nhiễm nguyên tội và lòng sùng kính mỗi ngày một tăng thêm. Đức Maria được coi như người nữ trinh thai, một Eva mới đã cưu mang con Thiên Chúa nhập thể làm người. Công Đồng Ephêsô vào năm 431 đã lần đầu tiên nhắc đến vấn đề Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Thiên Chúa, như một xác tín quan trọng liên quan đến các đặc ân mà Thiên Chúa đã tuôn đổ cách riêng trên Thân Mẫu của Chúa Cứu Thế.
Năm 1377, cuộc Đức Mẹ hiện ra và mạc khải với Thánh Brigitta được Đức thánh cha Grêgôriô XI thẩm tra và xác nhận là chân thật. Đức Mẹ nói với Thánh Brigitta: "Đúng sự thật là Mẹ đầu thai vô nhiễm. Hỡi ái nữ của Mẹ. Con hãy tin và thấy rằng những ai tin và tuyên xưng Mẹ đã được gìn giữ khỏi vết nhơ tội tổ là họ nghĩ đúng. Ai nghĩ ngược lại là sai, nhất là họ nghĩ càn giở".
Năm 1431, Công đồng Basel đã công bố một sắc lệnh như sau: "Chúng tôi xác định và tuyên ngôn rằng Đức Trinh Nữ Maria, do đặc ân Thiên Chúa giữ gìn, không bao giờ nhiễm lây vết nhơ nguyên tội, nhưng luôn luôn thánh thiện và vô nhiễm".
Ở thế kỷ XV, khi nền thần học đã hình thành một cách tương đối hoàn chỉnh, việc xác tín các đặc ân của Đức Mẹ đã được Giáo hội kiểm chứng qua dòng thời gian, Giáo Hội bắt đầu công bố: “ Thiên Chúa đã sửa soạn cho Con Thiên Chúa một cung lòng xứng đáng cho Ngài và làm cho Mẹ Người là một người Trinh nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Với mục đích đó, Thiên Chúa đã gìn giữ Đức Mẹ tinh tuyền khỏi mọi tội lỗi, nhờ vào ân sủng đặc biệt được hưởng trước sự thương khó, sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô”.
Đức thánh cha Sixtô IV là vị Giáo hoàng đầu tiên đã xác định vấn đề Đức Mẹ Vô nhiễm bằng cách ban hành 16 Hiến chế về Mẹ Maria Vô nhiễm. Trong số đó, 12 Hiến chế ban ân xá, 4 Hiến chế thiết lập và củng cố lễ Mẹ Vô nhiễm trong khắp Giáo hội.
Vào năm 1830, Đức Mẹ hiện ra ban cho Thánh Catarina Labouré tại Paris lời nguyện vắn tắt: "Lạy Mẹ Maria Vô nhiễm nguyên tội, xin cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi chạy đến cùng Mẹ".
Ngày 8 tháng 12 năm 1854, tại đền thờ Thánh Phêrô, trước mặt 54 Hồng y, 42 Tổng Giám mục, 92 Giám mục, 300 các viên chức sắc gồm cả ngoại giao đoàn, cùng với chừng 50,000 người gồm linh mục, tu sĩ, và giáo dân từ nhiều quốc gia, trong thông điệp Ineffabilis Deus, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã long trọng công bố Tín Điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội : “Ta tuyên xưng, công bố và xác quyết rằng tín điều này đã được Thiên Chúa mặc khải và vì thế phải được mọi tín hữu tin nhận cách chắc chắn, không được rút lại. Cụ thể, tín điều này xác quyết rằng Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria ngay từ giây phút đầu tiên được tượng thai – nhờ ân ban và đặc sủng vô song Thiên Chúa toàn năng ban cho và nhờ công trạng của Đức Giêsu Kitô – đã được gìn giữ khỏi mọi vương vấn nguyên tội”.
Vào năm 1858, một em bé gái vùng thôn quê ở Lộ Đức mới 14 tuổi tên là Bernadette Soubirous đã được vinh phúc chứng kiến chính Đức Mẹ hiện ra tại hang đá Massabielle nhiều lần, khi hỏi “Bà là ai?”, Người Nữ ấy đã trịnh trọng công bố: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyện Tội”. Kể từ đó, tín điều về Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội đã được loan báo trên toàn thế giới. Ngày 8 tháng 12 trở thành một dịp lễ trọng trong toàn thể Giáo hội để mừng kính Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Giáo hội Công giáo luôn ca ngợi Mẹ Thiên Chúa vì những phúc lành mà người được Thiên Chúa thương ban, cách riêng những đặc ân mà Thiên Chúa đã ban trên Đức Maria – thân mẫu của Chúa Cứu Thế. Bốn đặc ân quan trọng nhất Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria mà Giáo hội đã xác tín: Vô nhiễm nguyên tội, đồng trinh trọn đời, làm Mẹ Thiên Chúa và lên trời cả hồn lẫn xác. Trong một lần hiện ra, chính Đức Mẹ đã cho biết: “Nhờ một đặc ân mà Mẹ đã được thoát khỏi mọi tội lỗi, kể cả tội nguyên tổ, tội mà mỗi người các con đều mắc phải lúc đầu thai. Mẹ được gìn giữ khỏi tội lỗi, vì nơi Mẹ, một tạo vật thấp hèn, Chúa Ba Ngôi Chí Thánh đã muốn phản chiếu toàn vẹn chương trình sáng láng của Người. Mẹ được gìn giữ khỏi tội lỗi, đầy ân sủng, bởi vì Mẹ đã được chọn làm Mẹ của Ngôi Lời và được tiền định làm Đấng ban Chúa Giêsu Con Mẹ cho các con. Và Chúa Giêsu Con Mẹ đã ban Mẹ cho mỗi người các con như người Mẹ thật”. Thật vậy, đặc ân vô nhiễm nguyên tội đã chuẩn bị cho Đức Maria một sứ mạng cao quý là được làm Mẹ Đấng Cứu thế, làm Mẹ Thiên Chúa xuống thế làm người và làm mẹ của tất cả chúng ta.
Ngày nay, qua Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên tội, Chúa Cứu thế đã đến với chúng ta và đã thực hiện ơn cứu độ trong thế giới. Ngài đã trả lại cho con người tình trạng ơn nghĩa đã bị đánh mất vì tội nguyên tổ. Như thế, chúng ta tuy không được đặc ân vô nhiễm nguyên tội như Đức Mẹ nhưng chúng ta đã được khỏi tội nguyên tổ trong bí tích Thánh tẩy. Và khi được rửa sạch tội lỗi trong bí tích Thánh tẩy, chúng ta đã được sự sống mới, sự sống của Chúa và được có “Chúa ở cùng chúng ta” như đã ở cùng Đức trinh nữ Maria. Chúng ta không được làm mẹ Thiên Chúa, nhưng qua bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, làm em của Đức Giêsu Kitô và con của Mẹ Maria.
Với việc lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được tha tội tổ tông, nhưng hệ lụy của tội nguyên tổ vẫn còn có những ảnh hướng xấu đến chúng ta. Con người chúng ta trở nên yếu đuối dễ hướng chiều về tội lỗi. Chúng ta vẫn bị ma quỉ các dỗ nhất là lỗi đức trong sạch. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria mà giữ hồn xác trong sạch, xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa.
Gương mẫu của Đức Maria là một lời mời gọi mỗi người chúng ta biến đổi cuộc đời để đặt mình trong sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Đời sống của mỗi Kitô hữu phải đặt mình trong chương trình của Thiên Chúa. Hãy biết tín thác tất cả, yêu mến tất cả, cậy trông trọn vẹn để Thiên Chúa hành động trên cuộc đời mình theo Thánh ý của Ngài.